Chú Giải Cô-lô-se 01:01-14 Tin Lành Kết Quả Trong Những Ai Thật Lòng Tin Nhận

7,144 views


YouTube:
https://youtu.be/vQ-bUk_R44c?si=pN3dDM-uroOobqP_

Chú Giải Cô-lô-se 1:1-14
Tin Lành Kết Quả Trong Những Ai Thật Lòng Tin Nhận

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này, có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết.

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để đọc hoặc tải xuống pdf bài giảng này:

Kho chứa MP3 các bài giảng:

Kho chứa pdf các bài giảng:

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
MediaFire: 
OpenDrive: 

1 Phao-lô, sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ bởi ý muốn của Thiên Chúa, cùng Ti-mô-thê, người anh em cùng Cha.

2 {gửi} các thánh đồ cũng {là} các anh chị em cùng Cha trung tín trong Đấng Christ tại Cô-lô-se. Nguyện ân điển và sự bình an từ Thiên Chúa, Cha của chúng ta, và {từ} Đức Chúa Jesus Christ, {ở} cùng các anh chị em.

3 Chúng tôi dâng lời cảm tạ lên Đức Chúa Trời, Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, {trong khi} luôn cầu thay cho các anh chị em.

4 Vì chúng tôi đã nghe về đức tin của các anh chị em trong Đấng Christ Jesus, và về tình yêu {của các anh chị em} đối với mọi thánh đồ.

5 Bởi sự trông cậy để dành cho các anh chị em ở trong các tầng trời, là sự trước kia các anh chị em đã nghe trong lời của lẽ thật của Tin Lành.

6 {Tin Lành} này đến với các anh chị em cũng như trong cả thế gian, đem lại kết quả như {sự kết quả} trong các anh chị em, từ ngày các anh chị em đã nghe và biết ân điển của Đức Chúa Trời trong lẽ thật.

7 Như các anh chị em cũng đã học từ Ê-pháp-ra yêu dấu, tôi tớ cùng một chủ với chúng tôi, là người phụng sự trung tín của Đấng Christ đối với các anh chị em.

8 Anh ấy cũng đã tỏ ra cho chúng tôi biết tình yêu của các anh chị em trong thần trí.

9 Cho nên, chúng tôi cũng vậy, từ ngày chúng tôi nghe, thì không ngừng cầu nguyện cho các anh chị em, và xin cho các anh chị em được đầy dẫy sự tri thức về ý muốn của Ngài trong mọi sự khôn sáng và sự hiểu biết thiêng liêng.

10 Để các anh chị em bước đi cách xứng đáng với Chúa, hướng về mọi sự đẹp lòng {Ngài}, kết quả trong mỗi việc lành, càng thêm lên trong sự tri thức về Đức Chúa Trời.

11 Được nên mạnh mẽ với mọi năng lực theo quyền thế vinh quang của Ngài, vào trong mọi sự nhẫn nại và chịu đựng với sự vui mừng.

12 Hãy tạ ơn Đức Cha! {Ngài} đã khiến chúng ta dự phần hưởng cơ nghiệp của các thánh đồ trong sự sáng láng:

13 Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và dời chuyển {chúng ta} vào trong vương quốc của Con yêu dấu của Ngài.

14 Trong Đấng ấy chúng ta có sự cứu chuộc bởi máu của Ngài, {là} sự tha thứ những tội lỗi.


Thư Cô-lô-se do Sứ Đồ Phao-lô viết cho Hội Thánh tại thành Cô-lô-se. Thành Cô-lô-se là một trong sáu thành phố lớn của xứ Phy-ri-gi, thuộc vùng Tiểu Á (Asia Minor), ngày nay thuộc nước Thổ-nhĩ-kỳ (Turkey). Cô-lô-se cách Lao-đi-xê khoảng 16km và cách Hi-ê-ra-bô-li khoảng 21 km về hướng đông nam.

Nguồn: http://www.deeperstudy.org/img/asia_minor.jpg

Dân Cô-lô-se thời bấy giờ đa số là người Hy-lạp và người Do-thái. Có 2,000 gia đình Do-thái di dân đến khu vực Phy-ri-gi vào khoảng năm 214 trước Công Nguyên [1]. Vào năm 62 thì dân số Do-thái tại Cô-lô-se đã lên đến khoảng 50,000 người [2]. Dân Cô-lô-se thờ lạy thiên sứ và tin vào truyền thuyết cho rằng, có lần Thiên Sứ Trưởng Mi-chen (còn được phiên âm là Mi-ca-ên), đã hiện ra để giải cứu thành phố khỏi một cơn lụt lớn. Có lẽ vì thế mà Phao-lô đã nói đến những kẻ thờ lạy thiên sứ trong Cô-lô-se 2:18. Hội Thánh tại Cô-lô-se có lẽ do Ê-pháp-ra gây dựng. Cho đến thời điểm Phao-lô viết thư Cô-lô-se vào khoảng năm 62, cùng lúc với thư Ê-phê-sô và thư Phi-lê-môn, thì ông chưa hề đặt chân đến Cô-lô-se. Vì trong Cô-lô-se 2:1, ông viết: “các anh chị em và những người ở Lao-đi-xê, cùng bao nhiêu người không thấy mặt tôi về phần xác”. Thư Cô-lô-se có lẽ do Phao-lô đọc cho Ti-chi-cơ ghi chép trong khi ông bị tù lần thứ nhất tại Rô-ma, và do Ti-chi-cơ mang đến Cô-lô-se. Nội dung của thư Cô-lô-se bao gồm các điểm chính sau đây:

  • Sự kết quả của Tin Lành trong những ai thật sự tin nhận Đấng Christ.

  • Xác định thần tính của Đức Chúa Jesus Christ.

  • Công bố sự mầu nhiệm của Đức Chúa Trời.

  • Công bố sự cứu chuộc trọn vẹn trong Đức Chúa Jesus Christ.

  • Công bố sự cứu chuộc chỉ có trong Đấng Christ.

  • Phản bác tà giáo Tri Thức Luận (Gnosticism), là tà giáo cho rằng sự cứu rỗi có thể đạt được qua tri thức thuộc linh.

  • Các lời khuyên về nếp sống mới của những người thật sự tin nhận Tin Lành.

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về sự kết quả của Tin Lành trong những ai thật sự tin nhận Đấng Christ, qua Cô-lô-se 1:1-14.

1 Phao-lô, sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ bởi ý muốn của Thiên Chúa, cùng Ti-mô-thê, người anh em cùng Cha.

2 {gửi} các thánh đồ cũng {là} các anh chị em cùng Cha trung tín trong Đấng Christ tại Cô-lô-se. Nguyện ân điển và sự bình an từ Thiên Chúa, Cha của chúng ta, và {từ} Đức Chúa Jesus Christ, {ở} cùng các anh chị em.

Phao-lô mở đầu thư Cô-lô-se với lời chào mừng theo thói quen của ông. Lời chào mừng của Phao-lô bao gồm Ti-mô-thê như là người cùng ông gửi thư cho Hội Thánh tại Cô-lô-se. Có thể trước khi Phao-lô đọc cho Ti-chi-cơ ghi chép lá thư gửi cho Hội Thánh tại Cô-lô-se, thì ông và Ti-mô-thê đã cùng nhau cầu nguyện và thảo luận về nội dung sẽ viết trong thư. Tương tự như vậy là thư gửi cho Phi-lê-môn. Tuy nhiên, trong thư gửi cho Hội Thánh tại Ê-phê-sô thì Phao-lô không kèm theo tên của Ti-mô-thê. Chúng ta có thể hiểu rằng, trong cùng một thời điểm ba thư Ê-phê-sô, Cô-lô-se, và Phi-lê-môn được viết, thì Phao-lô có thảo luận với Ti-mô-thê về những gì sẽ viết trong thư Cô-lô-se và thư Phi-lê-môn, nhưng không có sự thảo luận với Ti-mô-thê về nội dung sẽ viết trong thư Ê-phê-sô. Có lẽ, vào lúc Phao-lô viết thư Ê-phê-sô thì Ti-mô-thê đã không có mặt bên ông.

Phao-lô luôn nêu lên sự kiện ông làm sứ đồ của Đức Chúa Jesus Christ bởi ý muốn của Thiên Chúa. Ông không dùng danh từ chỉ về Thiên Chúa với mạo từ xác định để chỉ về Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời, nhưng ông dùng danh từ Thiên Chúa không có mạo từ xác định để chỉ chung về ba thân vị của Thiên Chúa: Đức Chúa Trời, Ngôi Lời, và Đấng Thần Linh; còn gọi là: Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh.

Con dân Chúa được gọi là các thánh đồ của Đức Chúa Trời vì họ được Thiên Chúa làm cho nên thánh và biệt riêng ra để vui hưởng Thiên Chúa và hầu việc Thiên Chúa. Con dân Chúa gọi nhau là anh chị em cùng Cha vì họ cùng có chung một Cha là Đức Chúa Trời, Đấng tái sinh họ thành người mới trong Đấng Christ, và họ gọi Đức Chúa Trời là A-ba! (Nghĩa là: Cha).

Vì các anh chị em là con, nên Đức Chúa Trời đã sai Đấng Thần Linh của Con Ngài vào lòng của các anh chị em, kêu rằng: A-ba! Cha!” (Ga-la-ti 4:6).

Con dân Chúa là anh chị em cùng Cha nhưng có người trung tín và có người không trung tín, thậm chí còn có những người có nếp sống giống như những kẻ thù nghịch thập tự giá (Phi-líp 3:18). Trung tín có nghĩa là trước sau như một, không thay đổi. Trung tín trong Đấng Christ là sống một nếp sống không thay đổi trong đức tin về sự chết chuộc tội của Đấng Christ, về thần tính của Ngài, và về những sự dạy dỗ của Ngài.

Cách dùng chữ “Thiên Chúa, Cha của chúng ta” hàm ý: Thiên Chúa trong thân vị Đức Chúa Trời, là Cha của chúng ta. Tức là: Cha của chúng ta là Đức Chúa Trời, là Thiên Chúa.

Ân điển và bình an chỉ có thể đến từ Thiên Chúa. Ân điển và bình an từ Thiên Chúa Đức Cha là ân điển và bình an của sự được cứu rỗi khỏi tội lỗi và hình phạt của tội lỗi. Ân điển và bình an từ Đức Chúa Jesus Christ là ân điển và bình an của sự đắc thắng thế gian trong thân thể xác thịt này (Giăng 16:33).

3 Chúng tôi dâng lời cảm tạ lên Đức Chúa Trời, Cha của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, {trong khi} luôn cầu thay cho các anh chị em.

4 Vì chúng tôi đã nghe về đức tin của các anh chị em trong Đấng Christ Jesus, và về tình yêu {của các anh chị em} đối với mọi thánh đồ,

Đức Chúa Trời là Cha của Đức Chúa Jesus Christ vì Đức Chúa Trời đã sinh ra thân thể xác thịt của Đức Chúa Jesus Christ trong lòng trinh nữ Ma-ri. Trong thân vị loài người, Đức Chúa Jesus Christ là con của Đức Chúa Trời như A-đam là con của Đức Chúa Trời (Lu-ca 3:38). Chúng ta là con của Đức Chúa Trời theo dòng A-đam và chúng ta có quyền chọn để được là con của Đức Chúa Trời theo dòng Đấng Christ. Chúng ta đều đã chết theo A-đam thứ nhất trong sự phạm tội và nếu chúng ta chọn tin nhận Tin Lành thì chúng ta được tái sinh trong A-đam sau cùng là Đức Chúa Jesus Christ và sống bằng sự sống của Đấng Christ (Rô-ma 5:12; I Cô-rinh-tô 15:21, 45).

Phao-lô nhấn mạnh sự kiện Đức Chúa Trời là Cha của Đức Chúa Jesus Christ để con dân Chúa tại Cô-lô-se hiểu rằng, mọi sự Đức Chúa Jesus Christ làm là làm trong thánh ý của Đức Chúa Trời.

Trong khi Phao-lô dâng lời cầu thay cho con dân Chúa tại Cô-lô-se thì ông cũng dâng lời cảm tạ Đức Chúa Trời về đức tin của họ và sự họ thể hiện đức tin của họ thành hành động. Đức tin của con dân Chúa tại Cô-lô-se đã được loan truyền đến các Hội Thánh địa phương khác trong vùng Tiểu Á thời bấy giờ. Mặc dù Phao-lô chưa từng gặp mặt con dân Chúa tại Cô-lô-se nhưng ông được nghe biết về đức tin của họ và ông cầu thay cho họ. Có lẽ chính Ê-pháp-ra là người tường thuật chi tiết cho Phao-lô về đức tin của con dân Chúa tại Cô-lô-se, trong khi ông đến thăm Phao-lô tại Rô-ma hoặc là trong khi ông đang bị cầm tù chung với Phao-lô tại Rô-ma. Đức tin của con dân Chúa tại Cô-lô-se đã thể hiện rõ ràng qua sự họ yêu thương các thánh đồ, tức là những anh chị em cùng đức tin trong Đấng Christ. Nhóm chữ “đối với mọi thánh đồ” cho thấy con dân Chúa tại Cô-lô-se không chỉ thể hiện tình yêu đối với các thánh đồ tại địa phương mà là với tất cả những ai là thánh đồ của Đức Chúa Trời. Tình yêu của con dân Chúa đối với nhau được thể hiện qua hành động chăm sóc, tiếp trợ, khích lệ, an ủi, cứu giúp, quở trách, cầu thay… Họ yêu nhau bằng chính tình yêu của Đức Chúa Jesus Christ:

Ta ban cho các ngươi một điều răn mới: Các ngươi hãy yêu lẫn nhau. Như Ta đã yêu các ngươi thế nào, thì các ngươi cũng hãy yêu lẫn nhau thế ấy.” (Giăng 13:14).

Nếu các ngươi yêu lẫn nhau, thì bởi đó, mọi người sẽ biết các ngươi là những môn đồ của Ta.” (Giăng 13:35).

Đây là điều răn của Ta, là: Các ngươi hãy yêu lẫn nhau như Ta đã yêu các ngươi. Chẳng ai có tình yêu nào lớn hơn điều này, ấy là một người phó sự sống mình cho các bạn hữu mình.” (Giăng 15:12-13).

Nếu có ai xưng mình là con dân của Chúa, là môn đồ của Đức Chúa Jesus Christ, mà người ấy không thể hiện tình yêu đối với anh chị em cùng đức tin của mình, thì người ấy chỉ là một anh chị em giả dối. Người ấy chỉ tin Chúa bằng lời nói nhưng tấm lòng của người ấy không thật sự tin Chúa. Người ấy chỉ sống cho mình, người ấy chưa hề nhận biết Đức Chúa Trời.

Hỡi các con cái bé nhỏ, chớ yêu bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật. Bởi đó, chúng ta biết mình thuộc về lẽ thật và chúng ta sẽ được vững lòng trước Ngài.” (I Giăng 3:18-19).

Hỡi các con yêu dấu, chúng ta hãy yêu lẫn nhau; vì tình yêu thuộc về Đức Chúa Trời. Người nào yêu, thì sinh bởi Đức Chúa Trời và biết Đức Chúa Trời. Ai chẳng yêu, thì không biết Đức Chúa Trời; vì Đức Chúa Trời là tình yêu.” (I Giăng 4:7-8).

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phân biệt sự con dân Chúa thật sự yêu nhau và cứu giúp nhau với sự có những người giả vờ tin Chúa để lợi dụng con dân Chúa. Những người nói rằng họ đã tin Chúa nhưng thực tế thì họ không chịu từ bỏ nếp sống tội, chỉ muốn tìm kiếm lợi vật chất từ con dân Chúa, thì con dân Chúa phải tránh xa họ. Chính vì để bảo vệ con dân Chúa trước sự lợi dụng của những người không thật lòng tin Chúa, mà Chúa đã truyền cho con dân Chúa phải dứt thông công những kẻ có tội mà không ăn năn (Ma-thi-ơ 18:15-17; I Cô-rinh-tô 5:9-13).

5 bởi sự trông cậy để dành cho các anh chị em ở trong các tầng trời, là sự trước kia các anh chị em đã nghe trong lời của lẽ thật của Tin Lành.

Tình yêu của con dân Chúa trong Hội Thánh đối với nhau đến từ sự trông cậy hạnh phúc ở trong các tầng trời (Tít 2:13). Sự trông cậy hạnh phúc là sự trông cậy về sự thân thể xác thịt được sống lại hoặc được biến hóa trong vinh quang, được kết hiệp cách mầu nhiệm với Đấng Christ, được đồng cai trị cơ nghiệp của Đức Chúa Trời với Đấng Christ, và được vui thỏa đời đời trong vương quốc của Đức Chúa Trời.

Hình thức số nhiều “các tầng trời” được dùng ở đây có ý nói đến quyền cai trị các tầng trời được dành sẵn cho Hội Thánh.

Sự trông cậy hạnh phúc được công bố trong Tin Lành. Tin Lành không chỉ giới hạn với sự Đức Chúa Trời yêu thương loài người và ban cho loài người cơ hội được cứu rỗi bởi sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, mà Tin Lành còn bao gồm các ân điển Thiên Chúa ban cho loài người sau khi họ tin nhận Tin Lành.

Chúng ta hãy tưởng tượng hoàn cảnh của một người phạm tội chống nghịch vua, bị lên án tử hình, đang bị tù, chờ ngày bản án được thi hành. Bỗng nhiên, vua ban lệnh ân xá người ấy, ban cho người ấy cơ hội được làm con nuôi của vua và đồng trị với vua. Điều kiện duy nhất nhà vua đưa ra là: Người ấy phải thật lòng ăn năn tội và tin nhận lệnh ân xá của nhà vua, không còn vi phạm luật pháp của nhà vua nữa. Sự ăn năn tội và tin nhận lệnh ân xá của nhà vua giúp cho người ấy được thoát chết và được sống trong địa vị làm con nuôi của vua. Còn sự vâng giữ luật pháp của nhà vua khiến cho người ấy được đồng trị với nhà vua. Người ấy có thể sẽ phạm lỗi và sẽ bị nhà vua quở trách, rồi tha thứ khi người ấy biết lỗi và nhận lỗi. Nhưng nếu người ấy cố tình vi phạm luật pháp nhiều lần thì chắc chắn là người ấy sẽ mất đi địa vị làm con nuôi của vua và sẽ trở về địa vị của một người tử tù.

Lời của lẽ thật của Tin Lành tức là Thánh Kinh. Tin Lành thật là Tin Lành có lời của lẽ thật. Tin Lành giả là Tin Lành không có lời của lẽ thật mà chỉ có những triết lý, lý thuyết thần học, nguyên tắc đạo đức theo truyền thống của loài người:

Hãy coi chừng! Kẻo có ai dẫn các anh chị em đi lạc bởi triết học và lời gạt gẫm hư không, theo truyền thống của loài người, theo các nguyên tắc của thế gian, không theo Đấng Christ.” (Cô-lô-se 2:8).

Thực tế đáng buồn là nhiều người sau khi tin nhận lời lẽ thật của Tin Lành thì lại sống theo những lời gạt gẫm hư không của các giáo hội.

6 {Tin Lành} này đến với các anh chị em cũng như trong cả thế gian, đem lại kết quả như {sự kết quả} trong các anh chị em, từ ngày các anh chị em đã nghe và biết ân điển của Đức Chúa Trời trong lẽ thật,

Tin Lành chân thật không đến riêng với một người nào, một giai cấp nào, một chủng tộc nào nhưng đến với tất cả mọi người trong thế gian, trong mọi thời đại. Bất cứ ai thật lòng tin nhận Tin Lành, tức là thật lòng ăn năn tội, tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, và hết lòng sống theo lời lẽ thật của Tin Lành, là Thánh Kinh, thì Tin Lành sẽ kết quả trong người ấy, khiến người ấy được dựng nên mới, được ngập tràn tình yêu của Thiên Chúa.

Nhiều người chỉ tin nhận Tin Lành trong lý trí nhưng không tin nhận trong tấm lòng. Họ nhận biết họ là tội nhân, họ tin sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, họ tin lẽ thật của Thánh Kinh, nhưng lòng họ không chịu từ bỏ một tội lỗi nào đó. Tội lỗi ấy có thể là sự ham thích một thú vui tội lỗi nào đó, như sự ham thích tà dâm, sự nghiện thuốc lá, ma túy, rượu, cờ bạc… cũng có thể là lòng kiêu ngạo, thích khoe khoang, thích được người khác thán phục; cũng có thể lòng ích kỷ, chỉ biết yêu chính mình mà không yêu người khác.

Trong Ma-thi-ơ 25:31-46 ghi lại lời tiên tri của Đức Chúa Jesus Christ về sự Ngài sẽ phán xét những người tin nhận Tin Lành trong thời đại nạn, chịu khổ vì sự bách hại của AntiChrist. Từ câu 34 đến câu 40 là lời phán về những người thật sự tin nhận Tin Lành trong tấm lòng. Vì thế, Tin Lành kết quả trong họ, thể hiện thành hành động họ yêu thương, cứu giúp lẫn nhau:

34 Bấy giờ, Vua sẽ phán với những người ở bên phải rằng: Hỡi các ngươi được Cha Ta ban phước, hãy đến mà nhận lấy vương quốc đã sắm sẵn cho các ngươi từ khi dựng nên thế gian.

35 Vì Ta đói, các ngươi đã cho Ta ăn; Ta khát, các ngươi đã cho Ta uống; Ta là khách lạ, các ngươi tiếp đón Ta.

36 Ta trần truồng, các ngươi mặc cho Ta; Ta bệnh, các ngươi thăm Ta; Ta bị tù, các ngươi viếng Ta.

37 Lúc ấy, những người công bình sẽ thưa rằng: Lạy Chúa, khi nào chúng tôi đã thấy Ngài đói, mà cho ăn, hoặc khát, mà cho uống?

38 Lại khi nào chúng tôi đã thấy Ngài là khách lạ mà tiếp đón, hoặc trần truồng mà mặc cho?

39 Hay là khi nào chúng tôi đã thấy Ngài bệnh, hoặc bị tù, mà đến với Ngài?

40 Vua sẽ đáp lời, phán với họ rằng: Thật vậy, Ta nói với các ngươi, các ngươi đã làm cho một người thấp hèn nhất trong các anh chị em này của Ta, ấy là các ngươi đã làm cho chính mình Ta vậy.

Từ câu 41 đến câu 45 ghi lại lời phán về những người chỉ tin nhận Tin Lành trong lý trí. Họ biết lời tiên tri về Kỳ Tận Thế trong Khải Huyền đang ứng nghiệm trước mắt họ. Họ được thấy và nghe thiên sứ bay giữa trời, rao giảng Tin Lành (Khải Huyền 14:6). Họ nhận biết nếu họ vâng phục AntiChrist, mang dấu ấn của AntiChrist thì họ sẽ bị hư mất đời đời. Họ tin nhận Tin Lành và chịu khổ vì sự bách hại của chính quyền AntiChrist, nhưng họ chỉ tin nhận Tin Lành trong lý trí. Vì thế, Tin Lành không kết quả tình yêu trong họ. Đức tin của họ không sinh ra việc làm, trở thành đức tin chết (Gia-cơ 2:17, 26):

41 Kế đó, Ngài cũng sẽ phán với những người ở bên trái rằng: Hỡi những kẻ bị rủa, hãy lui ra khỏi Ta, đi vào lửa đời đời đã sắm sẵn cho Ma Quỷ và những sứ giả của nó.

42 Vì Ta đã đói, các ngươi không cho Ta thức ăn. Ta khát, các ngươi không cho uống.

43 Ta là khách lạ, các ngươi không tiếp đón. Ta trần truồng, các ngươi không mặc cho Ta.Ta bệnh và bị tù, các ngươi không thăm viếng.

44 Rồi họ cũng sẽ đáp lời Ngài, thưa rằng: Lạy Chúa, khi nào chúng tôi đã thấy Ngài, hoặc đói, hoặc khát, hoặc là khách lạ, hoặc trần truồng, hoặc bệnh, hoặc bị tù mà không phục vụ Ngài?

45 Thì Ngài sẽ trả lời họ, phán rằng: Thật vậy! Ta nói với các ngươi, các ngươi đã không làm cho một trong những người nhỏ nhất giữa những người này, là các ngươi cũng đã không làm cho Ta.

Lời phán xét của Đức Chúa Jesus Christ trong Ma-thi-ơ 25:46 rất là rõ ràng:

Và những kẻ này sẽ vào hình phạt đời đời, còn những người công bình sẽ vào sự sống đời đời.”

Sự kết quả của Tin Lành trong những ai thật sự tin nhận Tin Lành bắt đầu ngay từ ngày họ tin nhận Tin Lành và sự kết quả ấy là giống nhau cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, trình độ học thức, giai cấp, tuổi tác…

Sự hiểu biết sâu nhiệm về Lời Chúa và sự tăng trưởng về đức tin của mỗi người khác nhau, tùy theo lòng khao khát học hỏi của mỗi người, nhưng kết quả tình yêu của Tin Lành trong mỗi người là giống nhau. Bởi vì, một người được Đức Chúa Trời tái sinh là một người được sinh bởi tình yêu, được sinh ra trong tình yêu, được sinh ra với tình yêu, để người ấy yêu như Thiên Chúa yêu. Thánh Kinh nói rõ: Người mới là người đã được dựng nên giống như Thiên Chúa, trong sự công bình và sự thánh sạch chân thật (Ê-phê-sô 4:24). Một trong các ý nghĩa của sự công bình là cư xử với người khác như cách mình muốn người khác cư xử với mình. Một trong các ý nghĩa của sự thánh sạch là không vì quyền lợi của mình mà không cứu giúp người khác.

Nghe và biết ân điển của Đức Chúa Trời trong lẽ thật là nghe giảng dạy về ân điển của Đức Chúa Trời theo Thánh Kinh. Tất cả các giáo hội, giáo phái mang danh Chúa đều ít nhiều giảng dạy về ân điển của Đức Chúa Trời không đúng với lẽ thật, vì sự giảng dạy của họ dựa trên tư tưởng thần học của loài người chứ không dựa trên lẽ thật của Thánh Kinh. Ân điển của Đức Chúa Trời được công bố trong Thánh Kinh và chỉ có thể được giải thích bởi chính Thánh Kinh. Một thí dụ điển hình là tà giáo “được cứu một lần được cứu vĩnh viễn”. Tà giáo ấy dạy rằng, chỉ cần một người tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Jesus Christ thì người ấy được cứu và không bao giờ bị mất sự cứu rỗi. Tuy nhiên Thánh Kinh không hề dạy như vậy. Hê-bơ-rơ 6:4-8; 10:26-29 và II Phi-e-rơ 2:20-22 đã khẳng định: những ai đã tin Chúa rồi mà quay về sống trong tội thì sẽ bị hình phạt nặng hơn những người không tin Chúa. Ngay trong Ma-thi-ơ 25:41 và 46 được trích dẫn trên đây cũng cho chúng ta thấy: Những ai tin Chúa mà không biết yêu thương anh chị em cùng đức tin của mình thì sẽ bị hình phạt đời đời trong hỏa ngục chung với Ma Quỷ (được viết hoa để chỉ về Sa-tan).

Những giáo sư giả bênh vực cho tà giáo “được cứu một lần được cứu vĩnh viễn” thường dẫn chứng Giăng 3:16 để cho rằng chỉ cần tin Đức Chúa Jesus Christ thì được sự sống đời đời, mà đã được sống đời đời thì không thể nào bị hư mất. Tuy nhiên, động từ “tin” trong Giăng 3:16 là động từ thời hiện tại để chỉ một hành động luôn luôn thật. Nếu một người tin Chúa rồi sau đó quay về với nếp sống cũ tội lỗi thì người ấy trở thành một người đã có lần tin Chúa. Một người đã có lần tin Chúa thì không nhận được sự sống đời đời, mà phải lúc nào cũng tin Chúa. Tin Chúa là sống đúng theo Lời Chúa, là không vi phạm các điều răn của Chúa. Chữ “tin” trong Giăng 7:38 cũng được dùng với thời hiện tại:

Vì Ðức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban con một của Ngài, để cho bất cứ ai tin nơi con ấy thì không bị hư mất mà được sự sống đời đời.” (Giăng 3:16).

Ai tin Ta thì sông nước hằng sống sẽ chảy từ trong lòng người ấy, như Thánh Kinh đã nói.” (Giăng 7:38).

Nói chung, tất cả các câu Thánh Kinh nói đến sự tin Chúa thì được cứu rỗi hay được sự sống đời đời đều dùng động từ “tin” với thời hiện tại. Vì thế, người thật sự tin Chúa là người trong bất cứ khoảnh khắc nào của đời sống cũng tin và sống theo Lời Chúa, không phạm các điều răn của Chúa.

Trong thực tế, ít có Hội Thánh nào toàn hảo như Hội Thánh tại Si-miệc-nơ và Phi-la-đen-phi. Tội lỗi vẫn xảy ra trong các Hội Thánh địa phương và Chúa vẫn thương xót kêu gọi các Hội Thánh ăn năn. Nếu con dân Chúa vì một lý do nào đó lỡ bị phạm tội thì họ vẫn có cơ hội ăn năn, xưng tội, và được tha tội (I Giăng 1:9). Nhưng nếu có ai cứ tái diễn sự phạm tội thì sẽ đến một lúc nào đó Chúa sẽ mửa người ấy ra (Khải Huyền 3:16), người ấy sẽ không còn cơ hội để ăn năn; lòng của người ấy sẽ chai cứng khiến người ấy không còn có thể ăn năn.

7 như các anh chị em cũng đã học từ Ê-pháp-ra yêu dấu, tôi tớ cùng một chủ với chúng tôi, là người phụng sự trung tín của Đấng Christ đối với các anh chị em.

8 Anh ấy cũng đã tỏ ra cho chúng tôi biết tình yêu của các anh chị em trong thần trí.

Con dân Chúa tại Cô-lô-se được nghe và biết về ân điển của Đức Chúa Trời trong lẽ thật là nhờ sự giảng dạy của Ê-pháp-ra. Theo Cô-lô-se 4:12 thì Ê-pháp-ra xuất thân từ Cô-lô-se. Có thể ông chính là người gây dựng Hội Thánh tại Cô-lô-se. Trong thư gửi cho Phi-lê-môn, Phao-lô có nhắc đến Ê-pháp-ra, gọi ông là “bạn cùng bị tù trong Đấng Christ Jesus”. Chúng ta không có chi tiết nào khác trong Thánh Kinh hay trong sử liệu của Hội Thánh về việc Ê-pháp-ra cùng bị tù chung với Phao-lô vì Đấng Christ.

Phao-lô nhận rằng Ê-pháp-ra cùng là tôi tớ phục vụ Đấng Christ với ông, và Ê-pháp-ra đã trung tín trong chức vụ. Chính Ê-pháp-ra đã làm chứng về đức tin của con dân Chúa tại Cô-lô-se cho Phao-lô.

Tình yêu trong thần trí là tình yêu phát xuất từ sự nhận biết Chúa, kính yêu Chúa, vâng phục Chúa trong tâm thần. Đó là tình yêu chân thật chứ không phải chỉ bằng lời nói hay các việc làm giả hình. Đó là kết quả của Tin Lành trong những ai thật sự tin nhận Tin Lành.

9 Cho nên, chúng tôi cũng vậy, từ ngày chúng tôi nghe, thì không ngừng cầu nguyện cho các anh chị em, và xin cho các anh chị em được đầy dẫy sự tri thức về ý muốn của Ngài trong mọi sự khôn sáng và sự hiểu biết thiêng liêng.

Chúng tôi tức là Phao-lô và Ti-mô-thê. Từ khi được nghe biết về sự Tin Lành kết quả trong con dân Chúa tại Cô-lô-se thì Phao-lô và Ti-mô-thê cùng nhau dâng lời cầu thay cho họ.

Sự khôn sáng và hiểu biết thiêng liêng khác với sự khôn sáng và hiểu biết của xác thịt. Sự khôn sáng và hiểu biết thiêng liêng là sự hiểu biết các điều răn của Chúa và biết cách áp dụng sự hiểu biết ấy vào trong cuộc sống, dựa trên tri thức về Thiên Chúa và ý muốn của Ngài.

Tri thức (intuition) khác với trí thức (knowledge). Tri thức là sự tự nhiên hiểu biết về Thiên Chúa, về những sự thuộc linh và đạo đức mà không cần học hỏi, không cần suy luận; trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh là: ἐπίγνωσις (G1922), phiên âm: /ê-pí-nô-xích/. Còn trí thức là sự hiểu biết dựa trên suy luận; trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh là: γνῶσις (G1108), phiên âm: /nô-xích/.

Chỉ có một cách duy nhất để con dân có được sự khôn sáng và hiểu biết thiêng liêng; đó là vâng theo mệnh lệnh của Chúa trong Giô-suê 1:8:

Quyển sách luật pháp này chớ xa miệng ngươi, hãy suy ngẫm ngày và đêm, để cẩn thận làm theo mọi điều đã chép ở trong. Vì như vậy, ngươi mới được thịnh vượng trong đường lối mình và ngươi mới hành động thông sáng.”

Cho đến thời điểm Phao-lô viết thư cho con dân Chúa tại Cô-lô-se thì họ chỉ có Thánh Kinh Cựu Ước. Bởi vì trong thời điểm đó, Thánh Kinh Tân Ước đang được hình thành. Tuy nhiên Thánh Kinh Cựu Ước đủ để cho một người đầy dẫy tri thức về ý muốn của Đấng Christ. Bởi vì chính Đấng Christ đã dùng Thánh Kinh Cựu Ước để giải thích cho hai môn đồ của Ngài về chính mình Ngài:

Bắt đầu từ Môi-se và hết thảy các tiên tri Ngài giảng giải cho họ những điều chỉ về Ngài trong cả Thánh Kinh.” (Lu-ca 24:27).

Ngoài ra, con dân Chúa tại thành Bê-rê, khi nghe Phao-lô giảng Tin Lành thì ngày nào họ cũng tra xem Thánh Kinh (lúc bấy giờ chỉ có Cựu Ước) để xem lời giảng của Phao-lô có đúng với Thánh Kinh hay không (Công Vụ Các Sứ Đồ 17:11).

Ngày nay, chúng ta có phước hơn các thế hệ trước kia, vì chúng ta có cả Thánh Kinh Cựu Ước lẫn Thánh Kinh Tân Ước. Chúng ta lại được sống trong thời đại mà sự tiếp cận Thánh Kinh rất là dễ dàng. Chúng ta có thể đọc Thánh Kinh ngay trên chiếc điện thoại cầm tay của mình. Thế nhưng, chúng ta có biết tận dụng thời gian, cơ hội, và phương tiện Chúa ban cho chúng ta để chúng ta đọc, suy ngẫm Lời Chúa hay không? Chúa ban cho chúng ta tri thức về Chúa nhưng chúng ta cần đọc và suy ngẫm Lời Chúa để tri thức ấy trở thành trí thức.

Thí dụ: Thiên Chúa ban cho loài người tri thức về sự thực hữu của chính Ngài, nhờ đó, chúng ta tự nhiên BIẾT có một Thiên Chúa làm ra muôn loài và cai trị muôn loài. Nhưng sự đọc và suy ngẫm Lời Chúa khiến cho chúng ta được HIỂU lẽ thật về một Thiên Chúa tự có và có mãi trong ba thân vị: Đức Chúa Trời, Ngôi Lời, và Đấng Thần Linh. Thiên Chúa Ngôi Lời khi nhập thế làm người thì mang danh: Jesus. Thiên Chúa Đấng Thần Linh khi giáng thế ngự trong lòng người tin nhận Tin Lành thì mang danh: Đức Thánh Linh. Nhờ sự BIẾT và HIỂU đó về Thiên Chúa mà chúng ta có sự KHÔN SÁNG nhận biết các tà giáo phủ nhận thân vị Thiên Chúa của Đức Chúa Jesus và Đức Thánh Linh.

Sự đọc và suy ngẫm Lời Chúa sẽ khiến cho chúng ta biết hành động thông sáng và khiến chúng ta được thịnh vượng trong cuộc sống.

10 Để các anh chị em bước đi cách xứng đáng với Chúa, hướng về mọi sự đẹp lòng {Ngài}, kết quả trong mỗi việc lành, càng thêm lên trong sự tri thức về Đức Chúa Trời.

11 Được nên mạnh mẽ với mọi năng lực theo quyền thế vinh quang của Ngài, vào trong mọi sự nhẫn nại và chịu đựng với sự vui mừng.

Bước đi cách xứng đáng với Chúa là sống một nếp sống đẹp lòng Chúa mỗi ngày. Hướng về mọi sự đẹp lòng Ngài là mục đích của đời sống chúng ta chỉ là làm ra những gì đẹp lòng Chúa. Nhờ đó, đời sống của chúng ta được kết nhiều quả trong mỗi việc lành chúng ta làm ra, và chúng ta được càng thêm hơn sự tri thức về Đức Chúa Trời. Đời sống chúng ta càng kết quả trong mỗi việc lành bao nhiêu thì sự tri thức của chúng ta về Đức Chúa Trời càng thêm hơn bấy nhiêu. Càng được thêm hơn trong sự tri thức về Đức Chúa Trời thì chúng ta càng được mạnh mẽ hơn bởi năng lực được thể hiện qua quyền thế và sự vinh quang của Đức Chúa Trời. Sức mạnh đó khiến cho chúng ta vững vàng trong mọi sự nhẫn nại và chịu đựng mọi nghịch cảnh với lòng vui mừng.

12 Hãy tạ ơn Đức Cha! {Ngài} đã khiến chúng ta dự phần hưởng cơ nghiệp của các thánh đồ trong sự sáng láng:

13 Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực của sự tối tăm và dời chuyển {chúng ta} vào trong vương quốc của Con yêu dấu của Ngài.

Phao-lô khuyên con dân Chúa tại Cô-lô-se dâng lời tạ ơn Đức Cha; bởi vì Đức Chúa Trời khiến cho con dân Chúa trong Hội Thánh quyền được dự phần trong sự hưởng cơ nghiệp của những người được biệt riêng cho Đức Chúa Trời. Động từ “khiến” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: Làm cho xứng đáng, làm cho có khả năng. Chúng ta không xứng đáng, không có khả năng thừa hưởng cơ nghiệp của Đức Chúa Trời nhưng Ngài đã làm cho chúng ta trở nên xứng đáng và có khả năng.

Theo văn cảnh trong câu 13 thì nhóm chữ: “trong sự sáng láng” hàm ý: các thánh đồ ở trong sự sáng và cơ nghiệp mà họ thừa hưởng cũng ở trong sự sáng.

Nhưng các anh chị em là dòng dõi được lựa chọn, là chức thầy tế lễ của nhà vua, là dân tộc thánh, là dân thuộc về Ngài [Xuất Ê-díp-tô Ký 19:5-6; Ê-sai 43:20-21; 61:6], để cho các anh chị em rao giảng sự trọn lành của Đấng đã gọi các anh chị em ra khỏi sự tối tăm, vào trong sự sáng láng lạ lùng của Ngài.” (I Phi-e-rơ 2:9).

Quyền lực của sự tối tăm trước hết là quyền lực của tội lỗi khiến cho người ta không thể không phạm tội, cũng là quyền lực của sự chết, vì hậu quả của tội lỗi là sự chết. Kế tiếp, quyền lực của sự tối tăm là quyền lực của Sa-tan và các thiên sứ phạm tội, gọi chung là ma quỷ hoặc tà linh. Bất cứ một người nào được sinh ra trong thế gian này, ngoại trừ Đức Chúa Jesus, cũng đều đã ở dưới quyền lực của tội lỗi, vì bị nhiễm bản tính tội lỗi từ tổ phụ của loài người là A-đam. Chính vì thế mà mọi người đều đã phạm tội (Rô-ma 3:23). Người phạm tội bị ma quỷ tiếp tục cám dỗ cho phạm tội càng hơn và người ấy ở trong sự khống chế của ma quỷ, trở thành nô lệ của ma quỷ. Đức Chúa Trời giải thoát những ai tin nhận Tin Lành cứu rỗi của Ngài ra khỏi quyền lực của tội lỗi, của sự chết, của ma quỷ, tái sinh họ thành con cái của Ngài. Họ được Đức Thánh Linh ban cho thánh linh của Thiên Chúa, và được Đức Chúa Jesus Christ kết hiệp làm một với Ngài.

Vương quốc của Đức Chúa Trời được gọi là vương quốc của Con yêu dấu của Ngài, vì sẽ được cai trị bởi Đức Chúa Jesus Christ. Đức Chúa Jesus Christ sẽ đời đời cai trị vương quốc của Đức Chúa Trời với danh hiệu: Vua của Các Vua, Chúa của Các Chúa.

14 Trong Đấng ấy chúng ta có sự cứu chuộc bởi máu của Ngài, {là} sự tha thứ những tội lỗi.

Trong Đấng ấy là trong Đức Chúa Jesus Christ. Ở trong Đức Chúa Jesus Christ có nghĩa là hoàn toàn tin nhận Ngài và sống theo ý muốn của Ngài, trở nên một với Ngài. Sự cứu chuộc ở trong Đấng Christ là sự cứu chuộc ra khỏi quyền lực của tội lỗi, sự chết, và ma quỷ. Chỉ cần một người thật lòng tin nhận Đức Chúa Jesus Christ, vâng phục Ngài thì người ấy lập tức được thoát khỏi quyền lực của tội lỗi, sự chết, và ma quỷ. Bởi vì máu của Đức Chúa Jesus Christ đã đổ ra trên thập tự giá làm của lễ chuộc tội cho loài người một lần đủ cả:

Ấy là theo ý muốn đó mà chúng ta được nên thánh nhờ sự dâng thân thể của Đức Chúa Jesus Christ một lần đủ cả.” (Hê-bơ-rơ 10:10).

Vì nhờ dâng chỉ một của tế lễ, Ngài làm cho những kẻ nên thánh được trọn vẹn đời đời.” (Hê-bơ-rơ 10:14).

Một lần đủ cả có nghĩa là: Chỉ một lần chết của Đức Chúa Jesus Christ đủ để chuộc tất cả tội lỗi của toàn thể loài người trong mọi thời đại. Vì mạng sống của Ngài là mạng sống vô hạn của Thiên Chúa trong thân thể xác thịt loài người. Nếu Đức Chúa Jesus Christ không phải là Thiên Chúa nhập thế làm người thì mạng sống của Ngài có giới hạn. Mạng sống có giới hạn chỉ có thể chết thay một cách có giới hạn, nghĩa là chỉ có thể chết thay cho một người. Thực tế, chính Thánh Kinh đã gọi Đức Chúa Jesus Christ là Thiên Chúa. Xin đọc bài: Thiên Chúa: 12_Thánh Kinh Gọi Đức Chúa Jesus Christ Là Thiên Chúa [3].

Sự cứu chuộc Đức Chúa Jesus Christ làm ra cho loài người tức là sự Đức Chúa Trời tha tội cho loài người vì tội lỗi của loài người đã bị hình phạt trên Đức Chúa Jesus Christ.

Trọng điểm thứ nhất của Tin Lành là sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ. Trọng điểm thứ nhì của Tin Lành là sự những ai tin nhận Tin Lành được tái sinh thành người mới giống như Thiên Chúa. Và trọng điểm thứ ba của Tin Lành là những ai tin nhận Tin Lành sẽ được sống đời đời trong vương quốc của Đức Chúa Trời.

Sự kiện người tin nhận Tin Lành được tái sinh thành người mới giống như Thiên Chúa chính là sự Tin Lành kết quả trong những ai thật sự tin nhận Tin Lành. Trong Ma-thi-ơ 7:15-23 ghi lại lời phán dạy của Đức Chúa Jesus Christ, như sau:

15 Hãy coi chừng những tiên tri giả, là những kẻ mang lốt chiên đến với các ngươi, nhưng bề trong chúng là những chó sói hay cắn xé.

16 Các ngươi nhận biết chúng nó nhờ những trái của chúng nó. Có ai hái những trái nho nơi bụi gai, hay là những trái vả nơi bụi tật lê?

17 Vậy, bất cứ cây nào tốt thì sinh trái tốt, nhưng cây nào xấu thì sinh trái xấu.

18 Cây tốt chẳng sinh ra trái xấu, mà cây xấu cũng chẳng sinh ra trái tốt.

19 Bất cứ cây nào chẳng sinh trái tốt, thì phải đốn xuống và ném vào lửa.

20 Vậy, các ngươi nhờ những trái của chúng nó mà nhận biết chúng nó.

21 Chẳng phải hễ ai nói với Ta rằng: Lạy Chúa! Lạy Chúa! Thì được vào Vương Quốc Trời, nhưng ai làm theo ý muốn của Cha Ta, Đấng ở trên trời.

22 Ngày đó, sẽ có nhiều người thưa với Ta rằng: Lạy Chúa! Lạy Chúa! Chúng tôi chẳng từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri sao? Nhân danh Chúa mà trừ quỷ sao? Và nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ sao?

23 Khi ấy, Ta sẽ phán rõ ràng với họ rằng: Ta chẳng biết các ngươi bao giờ! Hãy lui ra khỏi Ta! Các ngươi là những kẻ làm ác.

Cảm tạ Chúa! Qua Thánh Kinh là Lời Hằng Sống của Ngài, chúng ta biết được ai là chiên, ai là dê, và ai là sói; ai là lúa mì và ai là cỏ lùng; ai thật là anh chị em cùng đức tin với chúng ta và ai giả làm anh chị em cùng đức tin giữa chúng ta. Để giữ gìn sự trong sạch và an toàn của Hội Thánh, Hội Thánh phải dứt thông công những kẻ có tội mà không ăn năn sau khi khuyên giải ba lần, và tránh xa những kẻ tin theo tà giáo, sau hai lần khuyên bảo.

Nguyện sự kết quả của Tin Lành trong đời sống của chúng ta chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa cho thế gian trong những ngày cuối cùng này. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
04/02/2017

Ghi Chú

[1] Josephus, “The Antiquities of the Jews”, 12.149: http://lexundria.com/j_aj/12.149/wst

[2] http://www.padfield.com/acrobat/history/laodicea.pdf

[3] https://timhieuthanhkinh.com/?p=1114

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.