Chú Giải II Ti-mô-thê 04:01-22

4,175 views

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Chú Giải II Ti-mô-thê 4:1-22
Những Lời Sau Cùng của Sứ Đồ Phao-lô

1 Vậy nên, trước Đức Chúa Trời và {trước} Đức Chúa Jesus Christ, {Đấng} sẽ phán xét những kẻ sống và những kẻ chết, theo sau sự hiện ra của Ngài và của vương quốc Ngài, ta truyền cho con:

2 Hãy sẵn sàng giảng Lời, {dù} đúng thời hay không đúng thời! Hãy quở trách, sửa trị, kêu gọi với hết thảy sự nhẫn nại và sự giảng dạy!

3 Vì sẽ có một thời, khi họ không giữ lấy giáo lý lành, nhưng theo sự ham muốn bất chính của họ, nhóm hiệp cho mình các giáo sư {giảng nghe} sướng lỗ tai.

4 Họ sẽ xoay lỗ tai khỏi lẽ thật, mà hướng về những chuyện nhảm nhí.

5 Nhưng con, hãy tỉnh thức trong mọi sự! Hãy chịu khổ! Hãy làm việc của người giảng Tin Lành! Hãy làm trọn mục vụ của con!

6 Vì ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, giờ ta ra đi đã gần rồi.

7 Ta đã đánh một trận đánh tốt lành. Ta đã xong cuộc đua. Ta đã giữ đức tin.

8 Vậy nên, mão của sự công bình đã để dành cho ta, mà Chúa, Đấng Quan Án Công Bình, sẽ ban cho ta trong ngày đó. Không chỉ cho ta mà thôi, nhưng cũng cho tất cả những ai yêu sự hiện đến của Ngài.

9 Hãy cố gắng sớm đến với ta;

10 vì Đê-ma đã lìa bỏ ta; người yêu đời này, và đã đi qua thành Tê-sa-lô-ni-ca. Cơ-rết-xen thì đến Ga-li-lê, còn Tít thì đến Đa-ma-ti.

11 Chỉ có Lu-ca ở với ta. Hãy đem Mác đến với con, vì người có ích cho ta trong mục vụ.

12 Ta đã sai Ti-chi-cơ đến thành Ê-phê-sô.

13 Khi con đến, hãy đem cái áo choàng mà ta đã để lại với Ca-bút, tại thành Trô-ách, cùng những sách vở nữa, nhất là những sách bằng giấy da.

14 A-léc-xan-đơ, người thợ đồng, đã làm nhiều sự dữ cho ta. Chúa sẽ báo trả hắn tùy theo những việc làm của hắn.

15 Con cũng hãy coi chừng hắn, vì hắn hết sức chống nghịch những lời của chúng ta.

16 Trong sự bênh vực mình lần thứ nhất của ta, chẳng có ai đến giúp ta. Hết thảy đều lìa bỏ ta. Nguyện điều đó không kể là tội cho họ.

17 Nhưng Chúa đã ở với ta và thêm sức cho ta, để qua ta sự rao giảng được hoàn thành, hết thảy dân ngoại được nghe; và ta đã được giải cứu khỏi miệng của sư tử.

18 Chúa sẽ giải cứu ta khỏi mỗi một sự dữ và cứu ta vào trong Vương Quốc Trời của Ngài. Sự vinh quang {thuộc về} Ngài đời đời! A-men!

19 Hãy chào thăm Bê-rít-ca với A-qui-la, cùng người nhà Ô-nê-si-phô-rơ. [Bê-rít-ca là cách gọi thân mật tên Bê-rít-sin]

20 Ê-rát ở lại tại thành Cô-rinh-tô, còn Trô-phim bị bệnh, ta để ở lại tại thành Mi-lê.

21 Con hãy cố gắng đến trước mùa đông. Ơ-bu-lu, Bu-đen, Li-nút, Cơ-lau-đia và hết thảy các anh chị em cùng Cha chào con.

22 Nguyện Đức Chúa Jesus Christ ở với tâm thần của con! Nguyện ân điển ở cùng các anh chị em! A-men!

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/f/MV8xNjA2Mjc4NDlf
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/9055040-ii-ti-mo-the-4_1-22
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/b4mrb0r2b4gj484/9055040_II_Timothe_4_1-22.mp3

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

II Ti-mô-thê đoạn 4 là những lời khuyên bảo và tâm sự sau cùng của Sứ Đồ Phao-lô với Ti-mô-thê, cũng như với toàn thể Hội Thánh từ thời ấy cho đến ngày Chúa đến. Khi đọc II Ti-mô-thê 4, chúng ta có thể cảm nhận được rằng, Sứ Đồ Phao-lô đã được Đức Thánh Linh thần cảm cho ông biết, là ông sắp qua đời để vào trong thiên đàng, sắp kết thúc cuộc chạy đua và cũng là trận chiến thuộc linh của riêng ông sau khoảng 35 năm.

Phao-lô được sinh ra vào khoảng năm thứ nhì trước Công Nguyên; gặp Chúa và tin nhận Tin Lành, trở thành sứ đồ của Đấng Christ để rao giảng Tin Lành vào khoảng năm 33; qua đời vào khoảng năm 68. Trong 70 năm của đời sống ông, 35 năm đầu ông tin Chúa, thờ phượng Chúa, và hầu việc Ngài một cách sốt sắng, hết lòng, nhưng không theo lẽ thật, mà chỉ theo những giáo lý của Do-thái Giáo; 35 năm sau ông cũng tin Chúa, thờ phượng Chúa, và hầu việc Ngài một cách sốt sắng, hết lòng, nhưng hoàn toàn theo lẽ thật, và còn đưa dẫn được biết bao nhiêu người đến với lẽ thật của Thánh Kinh. Từ trong thần trí, ông được sự ấn chứng của Đức Thánh Linh rằng: Ông đã xong cuộc đua, đã giữ vững đức tin, và mão vinh quang của sự công bình đang chờ đợi ông. Việc cuối cùng còn lại của ông, là chết vì danh Chúa. Cái chết của ông sẽ như là thức hương thơm từ một của lễ hy sinh, dâng lên Chúa. Của lễ hy sinh từ con dân Chúa là của lễ dâng mạng sống của chính mình lên Thiên Chúa, bước vào sự chết vì danh Chúa.

Một ngày giữa mùa hè năm 68, Phao-lô cùng với nhiều con dân Chúa, trong đó có Sứ Đồ Phi-e-rơ, đã vui mừng, dâng lên Thiên Chúa của lễ cuối cùng, là mạng sống của thân thể xác thịt đã mang nhiều dấu vết thương khó vì danh Chúa của họ. Đọc II Ti-mô-thê đoạn 4, người nhạy cảm sẽ cảm thấy ngậm ngùi trước những lời tâm tình, tha thiết của Phao-lô, và có thể hình dung ra vóc dáng gầy gò, ốm yếu, nhỏ nhắn của ông đang ngồi trong phòng giam, cặm cụi viết những dòng thư cuối cùng trong nước mắt, vì thương nhớ Ti-mô-thê, và vì nỗi bịn rịn khi nghĩ đến việc chia tay.

Thật cảm tạ Chúa vô cùng, vì Ngài đã ban Phao-lô cho Hội Thánh, tức là cho chúng ta. Qua những lá thư ông viết riêng cho một số con dân Chúa, hay viết chung cho các Hội Thánh địa phương giữa vòng các dân ngoại thời bấy giờ, ý nghĩa trọn vẹn của Tin Lành và thế nào là nếp sống mới trong Đức Chúa Jesus Christ đã được bày tỏ cách rõ ràng. Nói cách khác, Đức Thánh Linh đã dùng Phao-lô để dẫn Hội Thánh vào trong mọi lẽ thật của sự cứu rỗi, còn gọi là “Sự Được Xưng Công Bình bởi Đức Tin” và vào trong mọi lẽ thật của nếp sống thánh khiết đẹp lòng Chúa, còn gọi là “Sự Sống Theo Thần Trí”. Tuy nhiên, từ đầu thế kỷ 20 cho đến nay, một số người tự xưng là “thần học gia” đã lên tiếng công kích Sứ Đồ Phao-lô, vu khống ông là sứ đồ giả, giáo sư giả; và vu khống ông giảng một Tin Lành không đúng theo Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ rao giảng. Họ ngang nhiên loại bỏ tất cả các thư tín của Phao-lô trong Thánh Kinh Tân Ước. Họ hầu như không biết đến lời này của Sứ Đồ Phi-e-rơ, có thể được viết cùng lúc Phao-lô viết thư II Ti-mô-thê:

“Lại phải nhìn biết rằng, sự nhẫn nại lâu dài của Chúa chúng ta là vì sự cứu rỗi, cũng như Phao lô, anh cùng Cha rất yêu dấu của chúng ta, đã đem sự khôn ngoan được ban cho mình mà viết thư cho các anh chị em vậy. Cũng như anh ấy đã viết trong mọi bức thư, nói về những sự đó, ở trong có mấy khúc khó hiểu, mà những kẻ dốt nát và không vững chắc đem giải sai ý nghĩa, như chúng nó đã làm với các phần Thánh Kinh khác, mà chuốc lấy sự hư mất riêng cho chúng nó. Hỡi những người yêu dấu! Vì các anh chị em đã được biết trước, vậy hãy giữ cho cẩn thận, kẻo các anh chị em cũng bị dẫn đi sai lạc bởi sự lầm lạc của những kẻ ác, mà mất sự vững vàng của mình chăng.” (II Phi-e-rơ 3:15-17).

Vì thế, khi quý ông bà anh chị em nghe ai đó phê bình, chỉ trích Sứ Đồ Phao-lô thì hãy lập tức tránh xa họ, vì họ chỉ là công cụ của Sa-tan, được Sa-tan dùng để gieo rắc tà giáo vào Hội Thánh trong những ngày sau cùng này.

1 Vậy nên, trước Đức Chúa Trời và {trước} Đức Chúa Jesus Christ, {Đấng} sẽ phán xét những kẻ sống và những kẻ chết, theo sau sự hiện ra của Ngài và của vương quốc Ngài, ta truyền cho con:

“Vậy nên” có nghĩa là: Vì trong những ngày sau cùng sẽ có nhiều thời kỳ khó khăn, như Phao-lô đã tiên tri trong đoạn 2, cho nên…

Trước Đức Chúa Trời là Đấng đã giao mọi quyền của Thiên Chúa vào tay Đức Chúa Jesus Christ (Ma-thi-ơ 28:18) và trước Đức Chúa Jesus Christ, Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê những sự được ông viết từ câu 2 đến câu 5.

Phao-lô khẳng định: Đức Chúa Jesus Christ là Đấng sẽ phán xét những kẻ sống và những kẻ chết. Sự phán xét những kẻ sống sẽ xảy ra trong hai giai đoạn khác nhau:

Giai đoạn một: Sự phán xét những người ở trong Hội Thánh, khi Ngài xuất hiện giữa chốn không trung, để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian. Tất cả những ai không sống theo Lời Chúa đều sẽ bị bỏ lại. Chỉ những ai sống theo Lời Chúa, nghĩa là: Vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời, bao gồm điều răn thứ tư về ngày Sa-bát, và có đức tin trong sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus, thì thân thể xác thịt của họ sẽ được biến hóa thành một thân thể xác thịt vinh quang, bất tử, như thân thể phục sinh của Đấng Christ, và được cất lên không trung để gặp Chúa giữa những đám mây, nhận sự ban thưởng của Chúa về những việc lành đã làm, rồi vào trong thiên đàng với Chúa.

Điều kiện để được ở lại trong sự cứu rỗi không hề thay đổi, cho dù là trong bảy năm đại nạn của Kỳ Tận Thế. Đó là: Vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và giữ đức tin trong Đấng Christ, tức là đức tin trong sự chết chuộc tội của Ngài và đức tin làm theo những lời phán dạy của Ngài; trong đó, có lời phán dạy: Nếu ngươi muốn vào trong sự sống, hãy giữ các điều răn! (Ma-thi-ơ 19:17).

“Đây là sự nhẫn nại của các thánh đồ. Họ vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và {giữ} đức tin {trong} Đức Chúa Jesus.” (Khải Huyền 14:12).

Khi một người thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời qua sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì lập tức người ấy được cứu khỏi quyền lực của tội lỗi và hậu quả của tội lỗi. Được cứu khỏi quyền lực của tội lỗi là sức mạnh của tội lỗi không còn tác động được trên người ấy, không còn có thể bắt người ấy phải phạm tội. Nếu người ấy phạm tội, thì hoàn toàn là do sự tự do lựa chọn của người ấy. Được cứu ra khỏi hậu quả của tội lỗi là không còn phải chịu khổ đời đời trong hỏa ngục. Nhưng để cứ ở lại trong sự cứu rỗi thì một người phải tận dụng sức toàn năng của Chúa là thánh linh, để không chiều theo những ham muốn bất chính của xác thịt mà trở lại phạm tội, tức là phải giữ trọn các điều răn của Đức Chúa Trời, đồng thời luôn tin cậy sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, mỗi khi lỡ phạm tội, phải lập tức ăn năn và xưng tội với Chúa, để được tha tội và làm cho sạch tội.

“Nếu chúng ta xưng nhận những tội lỗi của mình, thì Ngài là thành tín công bình để tha thứ cho chúng ta những tội lỗi của chúng ta, và làm cho chúng ta sạch mọi điều không công bình.” (I Giăng 1:9).

Những người môi miệng nói là tin Chúa, xưng mình là môn đồ của Đấng Christ nhưng lại không vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời, khi lỡ phạm tội không ăn năn, xưng tội, thì trong ngày Chúa đến, họ đều bị bỏ lại. Đó là sự phán xét những người sống ở trong Hội Thánh. Lời Chúa phán về việc một người không trả hết nợ cho đến đồng xu nợ cuối cùng thì không được ra khỏi tù, cũng là điều sẽ xảy ra khi một người phạm tội mà không xưng tội với Chúa. Sự tha tội và làm cho sạch tội chỉ có thể xảy ra khi chúng ta thật lòng ăn năn và xưng tội với Chúa.

“Hãy nhanh chóng bằng lòng phục hòa với kẻ thưa kiện ngươi trong khi ngươi đi đường với kẻ ấy, kẻo kẻ thưa kiện nộp ngươi cho quan án, và quan án giao ngươi cho viên chức, và ngươi sẽ bị ném vào tù. Thật! Ta nói với ngươi, ngươi không thể ra khỏi đó cho tới khi ngươi đã trả một phần tư đồng xu cuối cùng.” (Ma-thi-ơ 5:25-26).

Giai đoạn hai: Sự phán xét muôn dân trên đất, khi Ngài giáng lâm trên đất vào cuối Kỳ Tận Thế. Tất cả những ai mang dấu ấn của AntiChrist đều sẽ bị giết chết (Khải Huyền 19:11-21). Sau đó là sự phán xét những người tin nhận Tin Lành trong Kỳ Tận Thế, như đã được Đức Chúa Jesus Christ tiên tri trong Ma-thi-ơ 25. Tất cả những ai tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời, vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời, có đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ, nhưng không có tình yêu thương đối với các anh chị em cùng đức tin, đều sẽ bị định phần chung với ma quỷ, bị hư mất đời đời trong hỏa ngục (Ma-thi-ơ 25:41).

Sự phán xét những kẻ chết cũng sẽ xảy ra trong hai giai đoạn.

Giai đoạn một: Sự phán xét những người chết ở trong Hội Thánh. Trong suốt gần hai ngàn năm qua, hàng chục triệu con dân của Chúa đã chịu chết vì danh Chúa, hoặc đã sống theo Lời Chúa cho đến chết. Khi Chúa xuất hiện giữa chốn không trung để đem Hội Thánh ra khỏi thế gian, những người chết trong Hội Thánh mà thật lòng vâng phục Chúa thì thân thể của họ sẽ được sống lại thành một thân thể vinh quang, bất tử, được cất lên không trung, gặp Chúa để nhận phần thưởng, rồi cùng vào trong thiên đàng với Ngài (I Cô-rinh-tô 15:52). Những người tin Chúa, được ở trong Hội Thánh, nhưng không sống theo Lời Chúa, không vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời, thì thân thể xác thịt của họ sẽ không được sống lại vào lúc ấy; nhưng sẽ sống lại vào cuối thời kỳ Vương Quốc Ngàn Năm, để chịu án phạt.

Giai đoạn hai: Sự phán xét chung cuộc những người chết sẽ xảy ra sau khi Vương Quốc Ngàn Năm của Đấng Christ đã hoàn tất trên đất. Sự phán xét này đã được Đức Chúa Jesus Christ tiên tri trong Khải Huyền 20:11-15.

Vào thời điểm Sứ Đồ Phao-lô viết II Ti-mô-thê 4:1 thì sách Khải Huyền chưa có. Mãi đến gần 30 năm sau đó, Giăng mới ghi lại lời tiên tri của Đức Chúa Jesus Christ về sự phán xét những người chết. Chúng ta thấy, II Ti-mô-thê 4:1 và Khải Huyền 20:11-15 đều tiên tri về cùng một sự kiện; và cả Phao-lô lẫn Giăng đều được Đức Thánh Linh thần cảm để viết ra những lẽ thật trong chương trình của Đức Chúa Trời.

Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê sáu điều, được liệt kê trong các câu 2 và 5.

2 Hãy sẵn sàng giảng Lời, {dù} đúng thời hay không đúng thời! Hãy quở trách, sửa trị, kêu gọi với hết thảy sự nhẫn nại và sự giảng dạy!

Điều thứ nhất Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy sẵn sàng giảng Lời Chúa, cho dù đúng thời hay không đúng thời.

Đúng thời là khi người ta chịu lắng nghe và tìm hiểu. Không đúng thời là khi người ta từ chối nghe, mà còn chế nhạo, bách hại. Khi Lời Chúa được rao giảng thì sẽ đem lại các kết quả như sau:

  • Có những người nghe thì tin nhận và được cứu rỗi.
  • Có những người nghe nhưng không tin.
  • Có những người không chịu nghe mà còn chống đối, chế nhạo, và bách hại người giảng.

Đối với những người nghe mà không tin và những người không chịu nghe thì trong ngày phán xét, chính những lời đã được rao giảng cho họ sẽ là chứng cớ nghịch lại họ, lên án họ:

“Kẻ nào chối bỏ Ta và không nhận những lời nói của Ta, thì có sự phán xét kẻ ấy. Lời mà Ta đã nói, chính lời ấy sẽ phán xét kẻ ấy trong ngày sau cùng.” (Giăng 12:48).

Điều thứ nhì Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy quở trách, sửa trị, kêu gọi với hết thảy sự nhẫn nại và sự giảng dạy.

Quở trách khi có người vi phạm các điều răn của Thiên Chúa. Sửa trị khi người phạm lỗi không chịu ăn năn, xưng tội ngay. Kêu gọi mọi người hãy hết lòng sống theo Lời Chúa. Cả ba công việc: quở trách, sửa trị, và kêu gọi, đều phải được làm ra với hết thảy sự nhẫn nại và sự giảng dạy. Nghĩa là kiên tâm, chịu đựng sự chậm hiểu hoặc thái độ không sốt sắng, không vâng phục của nhiều người, dùng sự giảng dạy Lời Chúa để soi sáng họ, dẫn dắt họ, thậm chí kỷ luật họ, để họ được trưởng thành trong đức tin.

3 Vì sẽ có một thời, khi họ không giữ lấy giáo lý lành, nhưng theo sự ham muốn bất chính của họ, nhóm hiệp cho mình các giáo sư {giảng nghe} sướng lỗ tai.

4 Họ sẽ xoay lỗ tai khỏi lẽ thật, mà hướng về những chuyện nhảm nhí.

Câu 3 và câu 4 nói về thời kỳ chối bỏ lẽ thật hiện nay. Chưa bao giờ trong lịch sử của Hội Thánh lại có nhiều giáo hội, giáo phái tự xưng là Hội Thánh của Chúa như hiện tại. Kể từ giữa thế kỷ 20 cho đến nay, số lượng giáo sư giả và tiên tri giả nhân danh Chúa giảng đủ loại Tin Lành biến chất, như: Tin Lành Thịnh Vượng, Tin Lành Quyền Phép, Tin Lành Hội Nhập, Tin Lành Huyền Nhiệm, v.v.. Họ có tài hùng biện, giỏi tâm lý, biết chiều theo tư dục của người nghe, luôn bẻ cong Lời Chúa để hợp lý hóa những ham muốn bất chính của xác thịt. Vì thế, người ta thích tụ tập để nghe các giáo sư giả và tiên tri giả rao giảng.

Khi một người chỉ thích nghe những gì hợp với những sự ham muốn bất chính của mình, thì họ không còn có thể nghe giảng dạy về lẽ thật. Họ chọn xoay lỗ tai của họ khỏi lẽ thật, nhưng sốt sắng tìm đến những nơi rao giảng sự dối trá, để nghe mà không biết chán.

5 Nhưng con, hãy tỉnh thức trong mọi sự! Hãy chịu khổ! Hãy làm việc của người giảng Tin Lành! Hãy làm trọn mục vụ của con!

Điều thứ ba Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy tỉnh thức trong mọi sự! Từ ngữ tỉnh thức vừa có nghĩa là tỉnh táo, không buồn ngủ, không mệt mỏi, không bị ảnh hưởng bởi các chất kích thích, vừa có nghĩa là bình tĩnh, không để cho cảm xúc chi phối, và vừa có nghĩa thận trọng, canh giữ. Tỉnh thức trong mọi sự là tỉnh thức trong mọi phương diện của cuộc sống. Có tỉnh thức trong mọi sự thì chúng ta mới thật sự hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự gì khác, cũng vì sự vinh quang của Thiên Chúa mà làm (I Cô-rinh-tô 10:31).

Điều thứ tư Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy chịu khổ! Trong II Ti-mô-thê 2:3, Phao-lô đã khuyên Ti-mô-thê hãy chịu khổ như một người lính giỏi của Đức Chúa Jesus Christ. Trong II Ti-mô-thê 2:9, Phao-lô đã tâm sự rằng: Vì Tin Lành mà ông đã chịu khổ như một người làm ác, đến nỗi bị trói. Giờ đây, trong những lời cuối cùng, kết thúc lá thư, một lần nữa, Phao-lô khuyên Ti-mô-thê hãy chịu khổ. Bởi vì: Hễ ai muốn sống cách tin kính trong Đức Chúa Jesus Christ thì sẽ bị bách hại (II Ti-mô-thê 3:12).

Điều thứ năm Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy làm việc của người giảng Tin Lành! Việc của người giảng Tin Lành là công bố sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ cho muôn dân. Khi có người tin nhận Tin Lành thì phải báp-tem họ vào trong danh của Đức Cha, Đức Con, và Đức Thánh Linh, là danh Thiên Chúa Tự Hữu Hằng Hữu, và dạy cho họ giữ hết thảy những điều mà Đức Chúa Jesus Christ đã phán truyền. Ngày nay, việc dạy những điều Đức Chúa Jesus Christ đã phán truyền có thể thực hiện bằng cách tặng cho những người mới tin Chúa một cuốn Thánh Kinh, khuyên họ đọc và suy ngẫm Lời Chúa. Ngoài ra, nên tặng thêm cho họ các thẻ nhớ ghi âm các bài giảng [1].

Điều thứ sáu Phao-lô truyền cho Ti-mô-thê là: Hãy làm trọn mục vụ của con! Mục vụ của Ti-mô-thê vừa là rao giảng Tin Lành, vừa là chăn dắt Hội Thánh tại Ê-phê-sô. Làm trọn mục vụ có nghĩa là hết sức làm trọn công việc giảng Tin Lành và công việc giám mục Hội Thánh.

6 Vì ta, ta đang bị đổ ra làm lễ quán, giờ ta ra đi đã gần rồi.

7 Ta đã đánh một trận đánh tốt lành. Ta đã xong cuộc đua. Ta đã giữ đức tin.

Câu 6 nói lên lý do vì sao trong câu 9 Phao-lô yêu cầu Ti-mô-thê sớm đến với ông. Lễ quán tức là của lễ dâng thức uống là rượu nho lên Thiên Chúa (Xuất Ê-díp-tô Ký 29:40). Rượu nho là chất được ép từ trái nho, để cho lên men, thành một chất uống có vị ngọt nhưng đem lại sự hưng phấn trong lòng: “rượu khiến cho đời vui” (Truyền Đạo 10:19). Rượu nho tiêu biểu cho niềm vui trong cuộc sống thuộc thể lẫn thuộc linh. Phao-lô ví đời sống của ông, dù phải chịu khổ, nhưng đầy niềm vui trong Chúa. Vào phút giây ông viết ra những dòng chữ trên đây, ông đã sẵn sàng hy sinh mạng sống đầy niềm vui trong Chúa của ông, như một của lễ dâng lên Thiên Chúa. Chắc chắn, Đức Thánh Linh đã cho ông biết, thời điểm ông được an nghỉ trong Đấng Christ đã đến.

Phao-lô nhìn lại suốt 35 năm tin Chúa, theo Chúa, và phục vụ Chúa của ông. Ông thấy: Ông đã làm trọn bổn phận và trách nhiệm của một người lính giỏi trong Đấng Christ. Ông đã đánh một trận đánh tốt lành. Ông cũng đã sống trọn vẹn một đời sống bỏ hết mọi sự để theo Chúa, chỉ nhắm đến mục đích của đời sống là được vào trong Vương Quốc Trời, mãi mãi ở bên cạnh Đức Chúa Jesus Christ, mà ông ví như là cuộc chạy đua nơi đấu trường, để giật giải thưởng. Điều quan trọng hơn hết là ông đã giữ vững đức tin.

Có thể nào một người chiến đấu dũng mãnh cho Đấng Christ, làm tròn công việc rao giảng Tin Lành và chăn dắt Hội Thánh của Chúa mà lại không giữ vững đức tin? Chúng tôi không biết chắc. Nhưng hơn hai mươi năm trước, tôi có đọc cuốn sách “Chúa Đã Khước Từ”, tác phẩm ấy thuật lại câu chuyện một người chăn ở tại Bắc Hàn, sau khi bị chính quyền cộng sản Bắc Hàn bắt, thì ông được họ tha về dù ông đã cương quyết không chối Chúa, trong khi 12 đồng sự của ông đều chối Chúa và tố cáo lẫn nhau, thì lại bị xử bắn. Ông đã tiếp tục làm tròn mục vụ của ông, nhưng ông không còn đức tin nơi Thiên Chúa nữa. Hiện nay, cuốn sách này đã được dịch ra tiếng Việt và bán tại Việt Nam [2].

Giữ đức tin có nghĩa là gì? Thứ nhất là luôn tin vào sự thực hữu của Thiên Chúa. Thứ nhì là luôn tin vào sự cứu rỗi của Ngài. Thứ ba là luôn tin vào Thánh Kinh. Rồi luôn thể hiện đức tin của mình qua mọi ý nghĩ, lời nói, và việc làm trong cuộc sống mỗi ngày. Tức là: Luôn luôn suy nghĩ, nói, và hành động đẹp lòng Thiên Chúa. Khi lỡ vi phạm điều răn của Thiên Chúa thì lập tức ăn năn và xưng tội với Đức Chúa Trời. Xem xét, đánh giá mọi sự hoàn toàn dựa vào Lời Chúa là Thánh Kinh.

Chúng ta hãy sống sao cho, đến giờ phút chúng ta ra khỏi thế gian này, chúng ta có thể nói như Phao-lô: Tôi đã đánh một trận đánh tốt lành. Tôi đã xong cuộc đua. Tôi đã giữ đức tin.

8 Vậy nên, mão của sự công bình đã để dành cho ta, mà Chúa, Đấng Quan Án Công Bình, sẽ ban cho ta trong ngày đó. Không chỉ cho ta mà thôi, nhưng cũng cho tất cả những ai yêu sự hiện đến của Ngài.

Mão của sự công bình là thẩm quyền phán xét được Đấng Christ ban thưởng cho những người đã trung tín trong sự hầu việc Chúa và có lòng mong đợi ngày Chúa hiện ra. Có thể đó là quyền phán xét những thiên sứ phạm tội và thế gian, như đã được nói đến trong I Cô-rinh-tô 6:2-3:

“Các anh chị em chẳng biết rằng, các thánh đồ sẽ phán xét thế gian sao? Nếu như thế gian sẽ bị các anh chị em phán xét, thì các anh chị em chẳng xứng đáng để phán xét những việc nhỏ hơn sao? Các anh chị em chẳng biết rằng, chúng ta sẽ phán xét các thiên sứ sao? Huống chi những việc đời này?”

Quý ông bà anh chị em có thể vào web site www.timhieutinlanh.net để nghe lại ba bài giảng về “Mão Triều Thiên”, giảng về năm loại mão mà con dân Chúa có thể nhận được [3].

Phao-lô, bởi sự ấn chứng của Đức Thánh Linh trong thần trí của ông, biết chắc rằng, ông sẽ nhận được mão công bình trong ngày Đấng Christ hiện ra giữa chốn không trung, để ban thưởng cho Hội Thánh và đem Hội Thánh vào trong thiên đàng.

Người yêu sự hiện đến của Chúa đương nhiên là người thể hiện tình yêu ấy thành hành động: đánh trận tốt lành, hoàn tất cuộc đua, và giữ vững đức tin.

“Hỡi các con cái bé nhỏ, chớ yêu bằng lời nói và lưỡi, nhưng bằng việc làm và lẽ thật.” (I Giăng 3:18).

Tình yêu không thể hiện thành hành động cụ thể, là tình yêu không thật. I Cô-rinh-tô 13 đã dạy cho chúng ta sự sống động của tình yêu.

9 Hãy cố gắng sớm đến với ta;

10 vì Đê-ma đã lìa bỏ ta; người yêu đời này, và đã đi qua thành Tê-sa-lô-ni-ca. Cơ-rết-xen thì đến Ga-li-lê, còn Tít thì đến Đa-ma-ti.

Phao-lô mong muốn sớm được gặp Ti-mô-thê lần cuối cùng. Có lẽ ông vừa có nhiều điều muốn nói với Ti-mô-thê, vừa muốn mặt đối mặt để chia tay với Ti-mô-thê. Từ Ê-phê-sô đến thành Rô-ma phải vượt một chặng đường bộ và thủy dài khoảng 2,000 km. Với phương tiện giao thông của thời ấy, phần lớn là đi bộ mỗi ngày từ 20 đến 30 km, thì cuộc hành trình một chiều có thể kéo dài hơn hai tháng. Chúng ta không biết sau khi Ti-mô-thê nhận được thư này thì ông có thể lên đường, đi gặp Phao-lô hay không.

Tên Đê-ma được nhắc đến lần đầu tiên là trong thư Phi-lê-môn (Phi-lê-môn câu 24), và lần thứ nhì trong thư Cô-lô-se (Cô-lô-se 4:14), lúc Phao-lô bị tù lần thứ nhất tại Rô-ma. Từ đó cho đến khi thư II Ti-mô-thê được viết là khoảng thời gian chừng bảy năm. Qua cách viết của Phao-lô trong câu 10 về Đê-ma, chúng ta có thể hiểu rằng, Đê-ma đã yêu mạng sống của mình, nên rời khỏi thành Rô-ma để tránh cơn bách hại lớn tại đó. Nghĩa là, Đê-ma vẫn giữ đức tin, nhưng ông đã không yêu Phao-lô đủ, để có thể ở lại với Phao-lô, như Lu-ca. Trong khi đó Cơ-rết-xen đến Ga-li-lê và Tít đến Đa-ma-ti, có lẽ là do Phao-lô sai đi.

Theo một số sử liệu của Hội Thánh thì Cơ-rết-xen là một trong bảy mươi môn đồ của Đức Chúa Jesus (Lu-ca 10:1). Cuối đời, ông đến xứ Gôn (Gaul) của Pháp, rao giảng Tin Lành và qua đời tại đó. Đa-ma-ti là một thành thuộc xứ Croatia /krô-ấy-sa/ ngày nay, (trước đây là một phần thuộc Cộng Hoà Nam-tư).

11 Chỉ có Lu-ca ở với ta. Hãy đem Mác đến với con, vì người có ích cho ta trong mục vụ.

12 Ta đã sai Ti-chi-cơ đến thành Ê-phê-sô.

Qua câu 11, chúng ta biết Lu-ca đã ở bên cạnh Phao-lô trong những ngày cuối cùng trên đất của Phao-lô. Điều này khiến chúng ta ngạc nhiên khi thấy sách Công Vụ Các Sứ Đồ chấm dứt sau khi ghi lại sự kiện Phao-lô đến thành Rô-ma, để chờ đợi được Nê-rô xét xử lần thứ nhất. Rất có thể là từ đó cho đến khi Phao-lô bị giết, một khoảng thời gian chừng bảy năm, có nhiều điều xảy ra cho Phao-lô, đã được Lu-ca ghi chép lại. Nhưng cũng có thể phần ghi chép đó đã bị thất lạc. Nếu thật vậy thì chúng ta có thể tin rằng, Đức Chúa Trời đã cho phép sự thất lạc ấy xảy ra, vì Ngài xét thấy phần ấy không cần lưu lại trong Thánh Kinh. Mà cũng có thể vì một lý do gì đó mà Đức Thánh Linh không thần cảm cho Lu-ca viết tiếp sách Công Vụ Các Sứ Đồ.

Cũng qua câu 11 mà chúng ta biết Mác đang ở tại Ê-phê-sô hoặc gần đó. Mác này là người chép sách Tin Lành Mác, là cháu của Ba-na-ba, mà có lần Phao-lô đã không cho theo ông và Ba-na-ba trong hành trình truyền giáo lần thứ nhì; vì trước đó Mác đã bỏ về khi đang giữa chừng trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ nhất (Công Vụ Các Sứ Đồ 15:38-39). Trong lần thứ nhất bị tù của Phao-lô, Mác cũng là một trong những người ở bên cạnh ông (Cô-lô-se 4:10). Một người khi thật lòng ăn năn, luôn luôn trở nên ích lợi cho Hội Thánh. Hội Thánh cũng cần tiếp nhận người đã thật lòng ăn năn.

Có lẽ Phao-lô đã sai Ti-chi-cơ đến Ê-phê-sô với mục đích thay cho Ti-mô-thê chăn dắt Hội Thánh tại Ê-phê-sô, trong khoảng thời gian Ti-mô-thê đến Rô-ma để gặp Phao-lô lần cuối, một chuyến đi mà cả đi lẫn về và thời gian lưu lại tại Rô-ma có thể kéo dài đến hơn nửa năm. Ti-chi-cơ quê xứ A-si, theo Phao-lô từ cuộc hành trình truyền giáo lần thứ ba (Công Vụ Các Sứ Đồ 20:4); ở bên cạnh Phao-lô khi Phao-lô bị tù lần thứ nhất (Cô-lô-se 4:7); đồng hành với Phao-lô khi Phao-lô được trả tự do và đi đến Ni-cô-bô-li (Tít 3:12); và tiếp tục có mặt bên cạnh Phao-lô khi Phao-lô bị tù lần thứ nhì. Sự kiện Phao-lô dùng thời bất định cho động từ “sai” trong tiếng Hy-lạp, theo văn phong của ông, giúp cho chúng ta hiểu rằng, có lẽ Phao-lô sai chính Ti-chi-cơ cầm lá thư này đến Ê-phê-sô.

13 Khi con đến, hãy đem cái áo choàng mà ta đã để lại với Ca-bút, tại thành Trô-ách, cùng những sách vở nữa, nhất là những sách bằng giấy da.

Chiếc áo choàng của Phao-lô là loại áo choàng làm bằng da hoặc len dày, được dùng khi đi đường xa. Có lẽ ông muốn dùng nó để qua mùa đông trong nhà tù. Những sách vở của Phao-lô, có thể là các sách vở về văn học, lịch sử, và các sách giải kinh của người Do-thái. Công Vụ Các Sứ Đồ 17:28 cho chúng ta thấy Phao-lô có đọc các loại sách văn học. Ngoài ra, có thể ông có các sách văn phạm của tiếng Hê-bơ-rơ và Hy-lạp, để tham khảo trong khi đọc Thánh Kinh Cựu Ước trong tiếng Hê-bơ-rơ đối chiếu với bản dịch trong tiếng Hy-lạp. Những sách bằng giấy da có thể là các bản Thánh Kinh chép tay trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ và bản dịch tiếng Hy-lạp.

14 A-léc-xan-đơ, người thợ đồng, đã làm nhiều sự dữ cho ta. Chúa sẽ báo trả hắn tùy theo những việc làm của hắn.

15 Con cũng hãy coi chừng hắn, vì hắn hết sức chống nghịch những lời của chúng ta.

A-léc-xan-đơ là một trong hai người đã bị Phao-lô dứt thông công, như ông đã viết trong I Ti-mô-thê 1:20. Nhiều sự dữ mà A-léc-xan-đơ đã làm cho Phao-lô là những lời vu khống Phao-lô. Khi một nguời chống nghịch lẽ thật thì đương nhiên người ấy sẽ vu khống những người rao giảng lẽ thật. A-léc-xan-đơ tiêu biểu cho những anh chị em cùng Cha giả dối mà Phao-lô đã gọi chung trong thư viết cho Hội Thánh tại Cô-rinh-tô (II Cô-rinh-tô 11:26). Vì A-léc-xan-đơ vẫn còn ở tại Ê-phê-sô nên Phao-lô nhắc chừng Ti-mô-thê.

Có một điều chắc chắn là Đức Chúa Jesus Christ sẽ báo trả một cách xứng đáng cho mỗi người tùy theo những việc làm của họ.

“Chớ có ai lấn lướt hay là lợi dụng anh chị em cùng Cha của mình trong việc gì; vì Chúa là Đấng báo trả tất cả những sự đó, như chúng tôi đã nói trước với các anh chị em và đã làm chứng.” (I Tê-sa-lô-ni-ca 4:6).

“Tuy nhiên, bởi sự công bình của Thiên Chúa, {Ngài sẽ} báo trả điều khổ cho những kẻ làm khổ các anh chị em.” (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:6).

Phao-lô nói: “hắn hết sức chống nghịch những lời của chúng ta” cho thấy, A-léc-xan-đơ là một kẻ rao giảng tà giáo, hoàn toàn bác bỏ những lời giảng về lẽ thật. Kẻ mang danh là con dân Chúa nhưng chống nghịch những lời rao giảng của những người được Chúa giao cho chức vụ giảng dạy trong Hội Thánh, chỉ có thể là kẻ tin theo tà giáo.

16 Trong sự bênh vực mình lần thứ nhất của ta, chẳng có ai đến giúp ta. Hết thảy đều lìa bỏ ta. Nguyện điều đó không kể là tội cho họ.

Lần thứ nhất Phao-lô bị tù tại Rô-ma là vì ông khiếu nại lên hoàng đế La-mã khi ông bị những người Do-thái cáo oan cho ông về tội làm loạn (Công Vụ Các Sứ Đồ 21-28). Lần ấy, có nhiều anh chị em trong Hội Thánh tại Rô-ma đến thăm ông, và ông được tự do giảng dạy suốt hai năm (Công Vụ Các Sứ Đồ 28:16-31). Lần thứ nhì Phao-lô bị tù vì Hoàng Đế Nê-rô ra lệnh bách hại con dân Chúa. Có lẽ trước khi Phao-lô bị tù lần thứ nhì thì ông đã bị bắt ra toà một lần, và lần ông ra tòa ấy, đã không có ai có mặt bên ông, có lẽ vì là cao điểm của sự bách hại, con dân Chúa tại Rô-ma đều lo trốn tránh. Chính vì vậy mà Phao-lô không xem sự lánh mặt của họ là tội lỗi, vì họ làm theo mệnh lệnh của Đức Chúa Jesus Christ. Riêng Lu-ca và Ti-chi-cơ vẫn ở lại bên cạnh ông. Chúng ta không biết vì sao vào lúc ấy Phao-lô và Phi-e-rơ bị bắt mà Lu-ca và Ti-chi-cơ lại không bị bắt. Chúng ta có thể tin rằng, vì mọi sự nằm trong thánh ý của Chúa và Chúa cho phép mọi sự xảy ra như vậy.

17 Nhưng Chúa đã ở với ta và thêm sức cho ta, để qua ta sự rao giảng được hoàn thành, hết thảy dân ngoại được nghe; và ta đã được giải cứu khỏi miệng của sư tử.

18 Chúa sẽ giải cứu ta khỏi mỗi một sự dữ và cứu ta vào trong Vương Quốc Trời của Ngài. Sự vinh quang {thuộc về} Ngài đời đời! A-men!

Khi loài người lìa bỏ chúng ta thì chúng ta vẫn còn có Thiên Chúa. Trong thực tế, chúng ta không cần ai hơn là Thiên Chúa. Tác giả Thi Thiên 73:25 đã viết:

“{Ở} trên các tầng trời tôi có ai {ngoài Ngài}? Còn {ở} dưới đất, ngoài Ngài tôi chẳng ước ao chi.”

Phao-lô nhìn lại suốt 35 năm theo Chúa và hầu việc Chúa của ông, ông nhận biết Chúa đã ở cùng ông, thêm sức cho ông, giúp ông hoàn thành công việc mà Chúa đã định sẵn cho ông. Đó là: Chịu khổ thật nhiều vì danh Chúa, để rao truyền danh Chúa trước các dân ngoại, trước các vua, và trước con dân I-sơ-ra-ên (Công Vụ Các Sứ Đồ 9:15-16).

Được giải cứu khỏi miệng của sư tử hàm ý được giải cứu khỏi sự bị Sa-tan cắn nuốt (I Phi-e-rơ 5:8).

Khi Phao-lô viết những dòng chữ trên đây, ông đã nhận biết rằng, trong những ngày cuối cùng của ông trong thân thể xác thịt yếu đuối, ông sẽ phải đối diện với nhiều sự dữ, như là bị tra tấn, buộc phải chối bỏ đức tin. Nhưng ông tin chắc rằng, Chúa sẽ giải cứu ông ra khỏi từng sự một, bằng cách thêm sức cho ông chịu đựng. Cuối cùng, Chúa sẽ mở đường cho ông ra khỏi, bằng cách đón linh hồn và tâm thần của ông vào trong thiên đàng. Ông nhận thức các sự ấy với lòng cảm tạ và tôn vinh Chúa.

19 Hãy chào thăm Bê-rít-ca với A-qui-la, cùng người nhà Ô-nê-si-phô-rơ. [Bê-rít-ca là cách gọi thân mật tên Bê-rít-sin]

20 Ê-rát ở lại tại thành Cô-rinh-tô, còn Trô-phim bị bệnh, ta để ở lại tại thành Mi-lê.

Phao-lô gửi lời chào tạm biệt những người từng sát cánh bên ông trong công cuộc truyền giáo: Vợ chồng Bê-rít-sin và A-qui-la, gia đình của Ô-nê-si-phô-rơ. Vợ chồng Bê-rít-sin và A-qui-la được Phao-lô nhắc đến trong Rô-ma 16:3 và trong I Cô-rinh-tô 16:19. Lu-ca viết về họ trong Công Vụ Các Sứ Đồ đoạn 18. Ô-nê-si-phô-rơ chỉ được nói đến trong thư II Ti-mô-thê, lần đầu trong II Ti-mô-thê 1:16, và lần cuối cùng là II Ti-mô-thê 4:19. Về Ô-nê-si-phô-rơ xin xem bài chú giải II Ti-mô-thê 1:1-18 trên khu mạng www.timhieuthanhkinh.com [4].

Ê-rát là thủ quỹ của thành phố Rô-ma (Rô-ma 16:23), từng được Phao-lô sai đi cùng Ti-mô-thê đến xứ Ma-xê-đoan (Công Vụ Các Sứ Đồ 19:22). Vào thời điểm Phao-lô viết thư II Ti-mô-thê thì Ê-rát đang ở tại thành Cô-rinh-tô, có lẽ để tránh sự bách hại đang xảy ra tại kinh thành Rô-ma. Trô-phim là người cùng quê ở A-si với Ti-chi-cơ và cùng Ti-chi-cơ theo Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo lần thứ ba (Công Vụ Các Sứ Đồ 20:4). Có lẽ, trong hành trình truyền giáo lần thứ năm thì Trô-phim bị bệnh, nên phải ở lại thành Mi-lê để dưỡng bệnh, trong khi Phao-lô tiếp tục đến thành Rô-ma và bị bắt trong cuộc bách hại của Nê-rô. Mi-lê là một thành phố nằm trên bờ biển Địa Trung Hải, cách Ê-phê-sô về phía nam khoảng 80 km.

21 Con hãy cố gắng đến trước mùa đông. Ơ-bu-lu, Bu-đen, Li-nút, Cơ-lau-đia và hết thảy các anh chị em cùng Cha chào con.

Phao-lô muốn Ti-mô-thê đến trước mùa đông, vì khi mùa đông đến thì sẽ không thuận tiện cho chuyến đi, và có thể lại phải chờ cho qua hết ba tháng của mùa đông. Và như vậy, Phao-lô phải chờ đến tám tháng: Ba tháng mùa thu cộng ba tháng mùa đông cộng hai tháng thời gian hành trình. Vì Phao-lô yêu cầu Ti-mô-thê đến trước mùa đông mà chúng ta biết lá thư này được viết vào khoảng đầu mùa thu năm 67.

Ơ-bu-lu chỉ được nói đến một lần duy nhất tại đây. Chúng ta không có sử liệu gì về Ơ-bu-lu.

Theo một số sử liệu thì Bu-đen có lẽ là một nghị sĩ La-mã, sống tại Rô-ma; Li-nút là giám mục của Hội Thánh tại Rô-ma sau khi Phao-lô và Phi-e-rơ qua đời. Cơ-lau-đia có lẽ là vợ của Bu-đen. Nói chung, họ là những con dân Chúa có danh tiếng tại Rô-ma. Dù khi Phao-lô ra tòa lần thứ nhất thì họ không đến bên cạnh ông, nhưng giờ đây, sau khi Phao-lô đã lãnh án, và sự bách hại cũng đã bớt khốc liệt, thì họ đã quay lại với Phao-lô. Sự bách hại đã bớt khốc liệt vì vào lúc ấy, các nghị sĩ La-mã phản đối Nê-rô, dẫn đến sự kiện Nê-rô tự sát sau khi Phao-lô qua đời được vài tháng.

22 Nguyện Đức Chúa Jesus Christ ở với tâm thần của con! Nguyện ân điển ở cùng các anh chị em! A-men!

Đức Chúa Jesus Christ ở cùng tâm thần của một người có nghĩa là thần trí của Đấng Christ ở trong người ấy và Đấng Christ hiện diện trong người ấy một cách siêu nhiên, như sự kiện con dân Chúa ở trong Đấng Christ và là một với Đấng Christ. Một người có thần trí của Đấng Christ là một người sống như Đấng Christ đã sống trong thân xác của một con người: Hoặc ăn, hoặc uống, hay là làm sự gì khác, cũng vì sự vinh quang của Thiên Chúa mà làm (I Cô-rinh-tô 10:31; I Giăng 2:6).

Phao-lô gửi lời chúc phước sau cùng đến con dân Chúa tại Ê-phê-sô. Ân điển ở cùng các anh chị em có nghĩa là tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa ở với các anh chị em. Bởi tình yêu của Thiên Chúa mà chúng ta sẽ không bao giờ thiếu thốn gì, nếu Chúa cho phép sự thiếu thốn xảy ra, là vì ích lợi của chúng ta trong giai đoạn ấy, và ân điển của Ngài sẽ làm nên trọn vẹn sự yếu đuối của chúng ta.

Cảm tạ Chúa vì Ngài đã ban cho Hội Thánh Sứ Đồ Phao-lô, nhờ sự giảng dạy của ông mà Hội Thánh được biết rõ các lẽ thật về Tin Lành và nếp sống mới trong Đấng Christ. Nguyện Chúa ban ơn, thêm sức cho mỗi một chúng ta, để ai nấy đều biết sốt sắng noi theo gương của Phao-lô, sống hết lòng vì Chúa, sống hết lòng yêu thương anh chị em cùng Cha của mình. Nguyện thần trí của Đấng Christ và ân điển của Ngài luôn ở trong tất cả chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
02/12/2017

Ghi Chú

Karaoke: “Mãi Muôn Đời Jesus Là Cứu Chúa Yêu Tôi”
http://thanhca.timhieutinlanh.net/karaoke-mai-muon-doi-jesus-la-cuu-chua-yeu-toi/

[1] https://timhieuthanhkinh.com/cac-dia-chi-nghe-xem-tai-xuong-cac-bai-giang/

[2] https://docsach.org/2017/06/25/chua-da-khuoc-tu/

[3] http://www.timhieutinlanh.net/mao-trieu-thien/

[4] https://timhieuthanhkinh.com/chu-giai-ii-ti-mo-the-1_1-18/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.