Chú Giải Nhã Ca 01:09-02:07

2,994 views

22003 Chú Giải Nhã Ca 1:9 – 2:7
Ngôn Ngữ của Tình Yêu

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/d/MV8xNzE2NTU1NDhf/22003NhaCa_03_NgonNguCuaTinhYeu_1_9-2_7.mp3
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/22003nhaca_03_ngonngucuatinhyeu_1_9-2_7
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/gpoo3wuho1jiew1/22003NhaCa_03_NgonNguCuaTinhYeu_1_9-2_7.mp3/file

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
Amazon Drive: https://www.amazon.com/clouddrive/share/EERPUwTASJiTF0aRyt5inO35U3LZbPYs8qE7kOvo5oU
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Ngày Chúa đến đã quá gần. Kính xin quý con dân Chúa tích cực bằng mọi phương tiện, mọi cách phổ biến bài giảng này đến tất cả những con dân Chúa mình quen biết, để dự phần trong việc gây dựng lẫn nhau trong Hội Thánh, giúp nhau sống đúng theo Lời Chúa, sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ. Xin cám ơn quý con dân Chúa. (Xin đọc bài này: http://www.timhieutinlanh.net/trach-nhiem-cua-con-dan-chua-khi-pho-bien-hoac-khong-pho-bien-mot-bai-giang/).

Nhã Ca 1:9-17

9 [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Ta sánh em như ngựa cái của ta giữa những chiến xa của Pha-ra-ôn.

10 Đôi má em xinh đẹp với những lọn {tóc} [hoặc nữ trang]. Cổ em {xinh đẹp} với chuỗi trân châu.

11 [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Chúng tôi sẽ làm cho nàng những sợi chuyền vàng với các chồi bạc.

12 [Su-la-mít:] Trong khi vua quanh quẩn {bên tôi}, cam tòng hương của tôi xông mùi thơm của nó ra.

13 Đối với tôi, người yêu của tôi {là} túi một dược, qua đêm giữa bờ ngực tôi.

14 Đối với tôi, người yêu của tôi {là} chùm hoa phụng tiên, trong những vườn nho của En Ghê-đi.

15 [Sa-lô-môn:] Này! Hỡi người yêu của ta, em xinh đẹp! Này! Em xinh đẹp! Đôi mắt em {là mắt} của bồ câu.

16 [Su-la-mít:] Này! Hỡi người yêu của em! Anh đẹp đẽ và đáng yêu! Giường của chúng ta xanh tươi.

17 Rường nhà của chúng ta {là} gỗ hương nam. Kèo nhà của chúng ta {làm} bằng cây tùng.

Nhã Ca 2:1-7

1 [Su-la-mít:] Tôi {là} hoa thu thủy tiên của Sa-rôn, hoa huệ của những đồng bằng.

2 [Sa-lô-môn:] Người yêu của ta ở giữa những con gái, {là} hoa huệ ở giữa những gai góc.

3 [Su-la-mít:] Người yêu của tôi ở giữa những con trai {là} cây táo ở giữa những cây rừng. Tôi đã khao khát {rằng}, tôi đã ngồi dưới bóng của chàng và trái của chàng ngọt ngào cho vòm miệng tôi.

4 Chàng đưa tôi vào nhà chứa rượu; và tình yêu của chàng là cờ xí trên tôi.

5 Hãy nâng đỡ tôi với bánh nho. Hãy làm tươi tỉnh tôi với trái táo. Vì tôi trở nên yếu đuối bởi tình yêu!

6 {Ước gì} tay trái của chàng {kê} dưới đầu tôi, còn tay phải của chàng ôm lấy tôi.

7 Hỡi những con gái của Giê-ru-sa-lem! Ta nài xin các ngươi, {như đối} với những con linh dương và với những con nai cái của đồng nội, chớ kinh động, chớ làm tỉnh thức tình yêu, cho đến khi nó sẵn lòng.

Nhã Ca 1:9-17 và 2:1-7 ghi lại những câu hát tỏ tình với nhau của Sa-lô-môn và Su-la-mít trong giai đoạn đính hôn. Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa những lời tỏ tình ấy. Nhưng trước hết, chúng ta sẽ theo văn mạch, làm công việc ngắt câu và sắp xếp các câu có liên quan đến một ý vào chung với nhau.

Dưới đây là sự phân câu theo văn mạch của Nhã Ca 1:9-2:7.

I. Giai đoạn đính hôn (1:2-3:5)

A. Tình yêu dành cho nhau (1:2-2:7)

1. Tình yêu của Su-la-mít dành cho Sa-lô-môn (1:2-8)

2. Ngôn ngữ của tình yêu (1:9-2:7)

(1) [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Ta sánh em như ngựa cái của ta giữa những chiến xa của Pha-ra-ôn. Đôi má em xinh đẹp với những lọn {tóc} [hoặc nữ trang]. Cổ em {xinh đẹp} với chuỗi trân châu.

(2) [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Chúng tôi sẽ làm cho nàng những sợi chuyền vàng với các chồi bạc.

(3) [Su-la-mít:] Trong khi vua quanh quẩn {bên tôi}, cam tòng hương của tôi xông mùi thơm của nó ra. Đối với tôi, người yêu của tôi {là} túi một dược, qua đêm giữa bờ ngực tôi. Đối với tôi, người yêu của tôi {là} chùm hoa phụng tiên, trong những vườn nho của En Ghê-đi.

(4) [Sa-lô-môn:] Này! Hỡi người yêu của ta, em xinh đẹp! Này! Em xinh đẹp! Đôi mắt em {là mắt} của bồ câu.

(5) [Su-la-mít:] Này! Hỡi người yêu của em! Anh đẹp đẽ và đáng yêu! Giường của chúng ta xanh tươi. Rường nhà của chúng ta {là} gỗ hương nam. Kèo nhà của chúng ta {làm} bằng cây tùng.

(6) [Su-la-mít:] Tôi {là} hoa thu thủy tiên của Sa-rôn, hoa huệ của những đồng bằng.

(7) [Sa-lô-môn:] Người yêu của ta ở giữa những con gái, {là} hoa huệ ở giữa những gai góc.

(8) [Su-la-mít:] Người yêu của tôi ở giữa những con trai {là} cây táo ở giữa những cây rừng. Tôi đã khao khát {rằng}, tôi đã ngồi dưới bóng của chàng và trái của chàng ngọt ngào cho vòm miệng tôi. Chàng đưa tôi vào nhà chứa rượu; và tình yêu của chàng là cờ xí trên tôi. Hãy nâng đỡ tôi với bánh nho. Hãy làm tươi tỉnh tôi với trái táo. Vì tôi trở nên yếu đuối bởi tình yêu! {Ước gì} tay trái của chàng {kê} dưới đầu tôi, còn tay phải của chàng ôm lấy tôi.

(9) [Su-la-mít:] Hỡi những con gái của Giê-ru-sa-lem! Ta nài xin các ngươi, {như đối} với những con linh dương và với những con nai cái của đồng nội, chớ kinh động, chớ làm tỉnh thức tình yêu, cho đến khi nó sẵn lòng.

Tiếp theo đây, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từng câu:

(1) [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Ta sánh em như ngựa cái của ta giữa những chiến xa của Pha-ra-ôn. Đôi má em xinh đẹp với những lọn {tóc} [hoặc nữ trang]. Cổ em {xinh đẹp} với chuỗi trân châu.

Sau khi nghe các hoàng hậu và phi tần khéo léo nói mỉa và làm nhục Su-la-mít, hàm ý so sánh Su-la-mít với gái điếm (1:8), thì Sa-lô-môn đã công khai lên tiếng ca ngợi sắc đẹp của Su-la-mít và bày tỏ tình yêu của ông đối với Su-la-mít.

Danh từ “người yêu của ta” được Sa-lô-môn dùng chín lần trong sách Nhã Ca để gọi Su-la-mít (1:9; 1:15; 2:2; 2:10; 2:13; 4:1; 4:7; 5:2; 6:4). Trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh thì đó là một danh từ để người đàn ông gọi người yêu của mình, với ý nghĩa: “Người nữ đáng yêu cùng đi bên cạnh trong cuộc đời”. Sa-lô-môn hàm ý, dù ông có nhiều hoàng hậu và phi tần, nhưng riêng Su-la-mít là người ông yêu quý nhất, và là người nữ cùng chia xẻ những vui buồn trong cuộc sống với ông.

Sa-lô-môn có nhiều chiến xa, được kéo bởi những ngựa chiến tinh luyện. Có thể một phần là quà tặng của Pha-ra-ôn khi ông cưới công chúa xứ Ê-díp-tô làm hoàng hậu, và phần lớn là do ông mua sắm từ xứ Ê-díp-tô, để dùng trong quân đội. I Các Vua 4:26 cho biết, Sa-lô-môn có 40.000 máng ăn dành cho những ngựa kéo những chiến xa. Mỗi máng ăn dành cho một ngựa, có nghĩa là Sa-lô-môn có 40.000 chiến mã, chuyên dùng cho việc kéo chiến xa. Mỗi chiến xa cần hai ngựa kéo. Nếu mỗi chiến xa được chia cho bốn chiến mã thay nhau kéo thì Sa-lô-môn có 10.000 chiến xa.

Chúng ta hãy hình dung ra cảnh Sa-lô-môn cưỡi con ngựa cái xinh đẹp yêu quý nhất của ông, đi giữa các chiến xa để duyệt binh. Dù đi giữa những chiến mã dũng mãnh nhưng con ngựa cái của Sa-lô-môn không sợ hãi. Nét đẹp, sự tôn quý, và sức mạnh của con ngựa cái nổi bật giữa những chiến mã.

Khuôn mặt của Su-la-mít xinh đẹp tự nhiên với những lọn tóc của nàng buông lơi hai bên gò má, hoặc với những lọn nữ trang buông lơi từ vòng cài tóc, hoặc với đôi lọn hoa tai. Chữ “lọn” trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ có thể dùng để chỉ lọn tóc hoặc lọn nữ trang, vì không có chữ tóc hay nữ trang kèm theo chữ lọn, nên chúng ta có thể hiểu rằng, chữ lọn được dùng để gọi chung các lọn tóc và các lọn nữ trang. Cổ của Su-la-mít đẹp tự nhiên nhưng càng nổi bật với chuỗi hạt trân châu sang quý.

Câu (1) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn nói với Su-la-mít: Hỡi người yêu dấu của anh! Đừng quan tâm đến những lời ganh tỵ, chứa đầy ác ý. Đối với anh, em xinh đẹp và khoẻ mạnh như con ngựa cái xinh đẹp, quý giá, và thân thiết của anh, dạn dĩ và nổi bật giữa bầy chiến mã kéo những chiến xa của Pha-ra-ôn. Những lọn tóc buông lơi của em, những lọn nữ trang từ vòng cài tóc của em, và đôi lọn hoa tai của em làm nổi bật nét xinh đẹp của đôi gò má em. Và chuỗi trân châu cao sang làm nổi bật nét đẹp tôn quý của cổ em.

Bài học thuộc linh: Đối với Đấng Christ, Hội Thánh là “người” đồng hành với Ngài trong suốt cõi đời đời, như chính lời Ngài đã phán:

Khi Ta đã đi và sắm sẵn cho các ngươi một chỗ rồi; Ta sẽ trở lại và đem các ngươi đến với Ta, để Ta ở đâu thì các ngươi cũng ở đó.” (Giăng 14:3).

Đối với Đấng Christ, Hội Thánh xinh đẹp với những việc làm công bình của các thánh đồ (Khải Huyền 19:8), và dũng mãnh cho đến chết trong những cơn bị bách hại khốc liệt bởi Sa-tan và những kẻ chống nghịch Thiên Chúa (Khải Huyền 2:10).

Đấng Christ yêu quý Hội Thánh và ban cho Hội Thánh địa vị cao trọng nhất là được hiệp một với Ngài và cùng Ngài đồng trị cơ nghiệp của Đức Chúa Trời cho đến đời đời. Ngài đã ban cho Hội Thánh chính sự vinh quang trong thân vị loài người của Ngài (Giăng 17:22). Là thân vị của một người được mang danh xưng Đức Chúa Trời (Giăng 17:11; Hê-bơ-rơ 1:8-9).

(2) [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Chúng tôi sẽ làm cho nàng những sợi chuyền vàng với các chồi bạc.

Lời Sa-lô-môn so sánh Su-la-mít với con ngựa cái yêu quý của ông, đi giữa hàng binh oai hùng là lời tôn cao sắc đẹp và phong cách của Su-la-mít. Lời ca ngợi của Sa-lô-môn dành cho Su-la-mít khiến cho các hoàng hậu và phi tần nhận thức là họ đã bởi lòng ganh tỵ mà nói quá lời, xúc phạm người phụ nữ được Sa-lô-môn vô cùng yêu quý và tôn trọng. Họ vội nói lời làm hòa; ngỏ ý sẽ làm các món nữ trang để tặng cho nàng.

Hình minh họa: Dây chuyền với những chồi

Câu (2) có thể được diễn ý như sau: Các hoàng hậu và phi tần nói với Su-la-mít: Hỡi người được vua tôn quý, yêu thương! Chúng tôi sẽ làm cho nàng những sợi chuyền vàng với các chồi bạc, để làm tôn cao nét đẹp của nàng. Xin hãy thứ lỗi cho chúng tôi.

Bài học thuộc linh: Là con dân Chúa chúng ta phải tránh việc ganh tỵ và nói xấu lẫn nhau. Đó là việc làm của xác thịt, không đem lại ích lợi, không gây dựng, không làm tôn vinh danh Chúa. Mỗi người đã được Chúa đặt để vào một vị trí, giao cho một bổn phận trong chương trình đời đời của Ngài. Chúng ta hãy cậy ơn Chúa để sớm nhận ra vị trí và bổn phận của mình, để hết lòng làm tròn những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho chúng ta. Chúng ta cũng hãy cậy ơn Chúa để sớm nhận ra vị trí và bổn phận của các anh chị em chúng ta trong Hội Thánh, để hết lòng hỗ trợ họ làm thành những việc lành của họ. Chúng ta hãy giúp tôn cao những nét đẹp thuộc linh của anh chị em chúng ta, thay vì ganh tỵ hoặc xem thường người khác.

(3) [Su-la-mít:] Trong khi vua quanh quẩn {bên tôi}, cam tòng hương của tôi xông mùi thơm của nó ra. Đối với tôi, người yêu của tôi {là} túi một dược, qua đêm giữa bờ ngực tôi. Đối với tôi, người yêu của tôi {là} chùm hoa phụng tiên, trong những vườn nho của En Ghê-đi.

Từ ngữ “mê-xép” (מֵסַב), mecab, /mêsab/, H4524, trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ khi dùng như danh từ thì chỉ một vật có hình dáng tròn, như cái bàn tròn, hoặc chỉ khu vực chung quanh; khi dùng như trạng từ thì có nghĩa là ở chung quanh. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống đã dịch câu 12 như sau:

Trong khi vua ngự bàn ăn, cam tòng hương tôi xông mùi thơm nó ra.”

Tuy nhiên, trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ của Thánh Kinh thì câu 12 không có động từ “ngồi” hay “ngự”. Theo văn mạch, Sa-lô-môn và Su-la-mít đang đi dạo trong rừng, nên không có chuyện ngồi vào bàn ăn. Vì thế, chúng tôi chọn dịch “mê-xép” trong câu 12 như một trạng từ, diễn tả Vua Sa-lô-môn quanh quẩn bên cạnh Su-la-mít trong buổi ngoạn cảnh của họ nơi rừng cây hương nam:

Trong khi vua quanh quẩn {bên tôi}, cam tòng hương của tôi xông mùi thơm của nó ra.”

Cam tòng hương (spikenard) có thể là thức hương thơm được điều chế từ rễ cây thi diệp cam tòng (nardostachys jatamansi). Cây thi diệp cam tòng mọc trên triền phía đông của rặng núi Hy-mã-lạp, ở độ cao từ 3.000 mét đến 5.000 mét. Cam tòng hương được nhập cảng vào xứ Ê-díp-tô và vùng Trung Đông như một hương liệu quý giá, dùng để chế dầu thơm và thuốc an thần. Bình dầu cam tòng hương của một phụ nữ dùng xức trên đầu Đức Chúa Jesus Christ, hai ngày trước khi Chúa chịu chết, trị giá bằng tiền công một năm của một người lao động (Mác 14:1-6).

Một dược (myrrh) là chất nhựa thơm tiết ra từ thân cây của một số loại cây nhỏ có gai ở vùng nhiệt đới Châu Phi và Trung Đông. Một dược được dùng làm thuốc trị nhiều chứng bệnh và dùng làm hương thơm, đặc biệt là dùng để tẩm liệm các xác chết.

Hoa phụng tiên, còn gọi là hoa móng tay (camphire) là một loại cây hoa mọc thành chùm, màu kem, có hương thơm, mọc nhiều ở vùng bắc Phi Châu và vùng nam Á Châu. Lá của hoa phụng tiên được tán mịn, dùng làm thuốc nhuộm để nhuộm móng tay, da, tóc, lụa, len…

En Ghê-đi (En Gedi) là một thị trấn ở đồng vắng xứ Giu-đê, phía tây bờ Biển Chết, cách Giê-ru-sa-lem khoảng 80 km. Tại đó, đất đai mầu mỡ với nhiều vườn nho, vườn chà là, và các loài cây có nhựa thơm.

Cây hương nam của xứ Li-ban là một loại cây có gỗ quý, được dùng đóng tàu thuyền và cất nhà. Nhựa cây hương nam rất thơm. Đền thờ của Thiên Chúa được xây dựng bằng cây hương nam. II Sử Ký 1:15 cho biết, Vua Sa-lô-môn cho trồng rất nhiều cây hương nam chung quanh thành Giê-ru-sa-lem. Ngày nay, không còn di tích rừng cây hương nam do Vua Sa-lô-môn cho trồng, nhưng dân I-sơ-ra-ên có xây dựng lâm viên Giê-ru-sa-lem ở phía tây nam của thành Giê-ru-sa-lem, trong đó, có đoạn đường mòn hương nam dài khoảng 4 km [1].

Khi Sa-lô-môn và Su-la-mít cùng nhau đi dạo trong rừng cây hương nam được trồng lẫn với những cây tùng, thì nhà vua quanh quẩn bên nàng. Khi thì Sa-lô-môn đi trước nàng, khi thì đi phía sau nàng, khi thì đi bên phải hoặc bên trái nàng. Hương thơm từ dầu cam tòng trên thân thể của Su-la-mít bao phủ lấy Sa-lô-môn. Lời hát ngắn gọn nhưng khiến cho chúng ta hình dung ra sự quấn quít của đôi tình nhân.

Su-la-mít nói với các hoàng hậu và phi tần rằng, trong khi Vua Sa-lô-môn quấn quít bên nàng, dầu cam tòng hương nàng xức trên thân thể của nàng tỏa ra mùi thơm êm dịu mà Sa-lô-môn ưa thích. Có lẽ, Su-la-mít hàm ý rằng, Vua Sa-lô-môn đã tặng cho nàng loại dầu thơm quý giá nhất và nàng đã dùng nó trong dịp ra mắt vua, khiến cho Sa-lô-môn vừa ý. Sa-lô-môn vừa ý vì thấy Su-la-mít dùng món quà quý giá của ông, khi ra mắt ông; và vì món quà quý giá ấy làm tôn sự quý phái, đáng yêu của nàng. Với Sa-lô-môn, mùi thơm tỏa ra từ thân thể của Su-la-mít chẳng khác nào tình yêu của nàng dành riêng cho ông, tỏa ra, bao phủ lấy ông.

Đối lại, Sa-lô-môn dùng dầu thơm chế từ một dược. Mùi thơm một dược tỏa ra từ Sa-lô-môn khiến cho Su-la-mít nghĩ đến túi thơm một dược nàng đeo trên ngực trong khi ngủ, và hình dung ra người yêu nằm cạnh mình suốt đêm. Khuôn mặt tươi sáng, thân thể thơm tho, dáng điệu vui khoẻ của Sa-lô-môn khiến cho Su-la-mít lại nghĩ đến những chùm hoa phụng tiên trong những vườn nho ở En Ghê-đi. Có lẽ đó là những vườn nho của Vua Sa-lô-môn mà trước đó nàng từng phụ các anh của mình làm công việc chăm sóc; và tại đó, nàng đã có nhiều lần nhìn ngắm những chùm hoa phụng tiên xinh đẹp.

Trong đời sống vợ chồng, con dân Chúa cần phải giữ cho thân thể của mình luôn được sạch sẽ, thơm tho bằng cách năng tắm gội mỗi ngày; vì thân thể của chúng ta vừa là đền thờ của Thiên Chúa, vừa là chi thể của Đấng Christ, vừa thuộc về chồng hoặc vợ của mình (I Cô-rinh-tô 3:16; 6:15; 6:19; 7:4). Không có gì sai khi chúng ta dùng các loại mỹ phẩm có hương thơm, như tắm gội bằng các loại xà-phòng thơm, thoa các chất kem dưỡng da có mùi thơm, và ngay cả xức các loại dầu thơm. Miễn là các mùi thơm đó hợp với chồng hay vợ của chúng ta. Ngày nay, các loại tinh dầu cam tòng, một dược đều có bán trong những tiệm chuyên bán tinh dầu.

Câu (3) có thể được diễn ý như sau: Su-la-mít nói với các hoàng hậu và phi tần: Trong khi vua ở phía trước, phía sau, và bên cạnh tôi, thì cam tòng hương được xức trên thân thể của tôi xông mùi thơm êm dịu của nó ra, làm cho chàng được sảng khoái. Tình yêu của tôi dành cho chàng tỏa ngát đến chàng, không khác gì hương thơm của cam tòng hương. Người yêu của tôi thơm như một dược, khác nào hương thơm của túi một dược nằm suốt đêm giữa bờ ngực tôi. Tình yêu của chàng ấp ủ tôi trong giấc ngủ, cũng không khác gì hương thơm của một dược. Người yêu của tôi tươi sáng và đẹp đẽ, khác nào chùm hoa phụng tiên trong những vườn nho của En Ghê-đi.

Bài học thuộc linh: Đấng Christ ban cho Hội Thánh sự thánh khiết bằng cách dùng máu thánh của Ngài rửa sạch mọi tội lỗi của Hội Thánh. Đấng Christ luôn ở bên cạnh Hội Thánh nên Hội Thánh phải luôn mặc lấy sự thánh khiết ấy. Hội Thánh sống nếp sống thánh khiết chính là sự Hội Thánh thể hiện tình yêu của mình dành cho Đấng Christ.

Tình yêu của Đấng Christ dành cho Hội Thánh và sự thánh khiết của Đấng Christ bao phủ Hội Thánh như thức hương thơm một dược. Sự công chính của Đấng Christ là nét đẹp của Ngài, như sự tươi sáng và đẹp đẽ của chùm hoa phụng tiên mọc trong nơi vùng đất mầu mỡ nhất.

(4) [Sa-lô-môn:] Này! Hỡi người yêu của ta, em xinh đẹp! Này! Em xinh đẹp! Đôi mắt em {là mắt} của bồ câu.

Lời Chúa ví con mắt của chúng ta là ngọn đèn của thân thể:

Ngọn đèn của thân thể là con mắt. Vậy, nếu mắt của ngươi tốt lành thì cả thân thể của ngươi sẽ được sáng.” (Ma-thi-ơ 6:22).

Lời Chúa cũng khuyên chúng ta hãy đơn sơ như chim bồ câu (Ma-thi-ơ 10:16), và dùng hình dạng của chim bồ câu để tiêu biểu cho Đức Thánh Linh (Ma-thi-ơ 3:16; Mác 1:10; Giăng 1:32). Vì thế, lời so sánh đôi mắt của một người với mắt của bồ câu là nói lên nét đẹp từ trong tâm thần cho đến ngoài xác thịt của người ấy. Chẳng những người ấy có hình dáng bên ngoài xinh đẹp mà còn có tấm lòng đơn sơ, thánh khiết, nhu mì, bình an, đem lại sự vui thỏa và sự an ủi cho người khác.

Câu (4) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn nói với Su-la-mít: Hỡi người yêu dấu của anh! Hãy nghe lời anh nói! Em thật là xinh đẹp! Em xinh đẹp từ thể xác đến tâm thần. Đôi mắt em xinh đẹp như mắt của bồ câu, chiếu ra sự đơn sơ, thánh khiết, nhu mì, bình an trong em, và chiếu ra tình yêu tha thiết của em dành cho anh, khiến cho anh được đầy sự vui thỏa khi ở gần bên em.

Bài học thuộc linh: Đấng Christ đã vì yêu chúng ta mà hy sinh cho chúng ta, khiến chúng ta được sạch tội và nên thánh để đời đời kết hiệp với Ngài, cùng Ngài đồng trị cơ nghiệp của Đức Chúa Trời. Chúng ta cũng hãy vì yêu Đấng Christ mà trả mọi giá, kể cả mạng sống của mình, để trung tín sống nếp sống thánh khiết theo gương của Ngài.

(5) [Su-la-mít:] Này! Hỡi người yêu của em! Anh đẹp đẽ và đáng yêu! Giường của chúng ta xanh tươi. Rường nhà của chúng ta {là} gỗ hương nam. Kèo nhà của chúng ta {làm} bằng cây tùng.

Sa-lô-môn và Su-la-mít đi dạo trong rừng hương nam ở ngoại thành Giê-ru-sa-lem. Họ cùng nhau nằm trên thảm cỏ xanh, ngắm nhìn những tàng cây hương nam và cây tùng. Su-la-mít ví khu rừng như là căn nhà riêng của họ mà thảm cỏ xanh tươi là giường nằm, những cành cây hương nam là những rường nhà và những cành cây tùng là những kèo nhà. Nàng cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên cạnh người yêu, đến nỗi, nơi đâu đối với nàng cũng có thể là nhà, miễn là người yêu ở bên cạnh nàng.

Câu (5) có thể được diễn ý như sau: Su-la-mít nói với Sa-lô-môn: Anh yêu dấu của em ơi! Hãy nghe em nói! Anh thật là đẹp đẽ và đáng yêu! Chỉ cần có anh ở bên cạnh là em hạnh phúc. Em chỉ cần có anh là đủ! Em không màng đến cung vàng, điện ngọc. Thảm cỏ xanh tươi này khác nào giường nằm của chúng ta? Những cành hương nam kia khác nào những rường nhà của chúng ta? Và những cành tùng kia khác nào những kèo nhà của chúng ta?

Bài học thuộc linh: Trong cuộc đời của chúng ta, chỉ cần chúng ta thuộc về Đấng Christ và Đấng Christ hiện diện bên chúng ta thì chúng ta không cần gì hơn nữa, như lời của một bài thánh ca: Ngài là muôn nhu cầu con.

(6) [Su-la-mít:] Tôi {là} hoa thu thủy tiên của Sa-rôn, hoa huệ của những đồng bằng.

Hoa thu thủy tiên (colchicum autumnale) của Sa-rôn có lẽ là loại hoa huệ đất nở vào mùa thu trên đồng bằng của vùng đất Sa-rôn. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Truyền Thống dịch là “hoa tường vi”. Một số bản dịch Thánh Kinh Anh ngữ dịch là hoa hồng. Nhưng hoa tường vi và hoa hồng khác xa với hoa thu thủy tiên.

Sa-rôn là vùng đồng bằng nằm ở phía nam của núi Cạt-mên, bên bờ Địa Trung Hải, nơi các bầy bò của Vua Đa-vít được chăn nuôi (I Sử Ký 27:29).

Hoa huệ của những đồng bằng có thể là loại hoa huệ đỏ (anemone coronaria) thường thấy trên những đồng bằng Trung Đông. Chúng ta biết đó là loại hoa huệ có màu đỏ vì trong Nhã Ca 5:13 ví đôi môi của Sa-lô-môn như hoa huệ.

Hình minh họa: Hoa thu thủy tiên (1)


Hình minh họa: Hoa thu thủy tiên (2)


Hình minh họa: Hoa huệ của những đồng bằng (1)


Hình minh họa: Hoa huệ của những đồng bằng (2)

Su-la-mít ví nét đẹp của mình như hoa thu thủy tiên của Sa-rôn và hoa huệ của những đồng bằng. Cả hai loại hoa đều xinh đẹp nhưng hoang dại, mọc đầy trên các đồng cỏ xứ Ca-na-an. Phần lớn các nhà giải kinh cho rằng, Su-la-mít khiêm nhường, so sánh mình với các loài hoa dại. Tuy nhiên, chúng ta hãy nhớ lại rằng, Su-la-mít đã thẳng thắn công bố: “Tôi đen nhưng xinh đẹp!” Và Su-la-mít đã tự ví mình với những lều trại Kê-đa, với những màn trướng trong cung điện của Sa-lô-môn (1:5). Trong 7:1 Sa-lô-môn gọi Su-la-mít là con gái của nhà quý tộc. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng, khi Su-la-mít so mình với hoa thu thủy tiên của Sa-rôn và hoa huệ của những đồng bằng thì không phải là để tỏ mình khiêm nhường. Nhưng Su-la-mít muốn nói đến phương diện hai loài hoa xinh đẹp này là nữ hoàng của hoa trên các đồng cỏ, vì khi chúng nở thì giống như trải thảm trên đồng cỏ, lấn áp tất cả các loài hoa khác. Chính Đức Chúa Jesus Christ đã từng nói, sắc đẹp của hoa huệ ngoài đồng do Đức Chúa Trời ban cho còn đẹp hơn cả những chiếc áo sang trọng của Vua Sa-lô-môn (Ma-thi-ơ 6:28-29; Lu-ca 12:27).

Điều được nói đến trong câu hát này của Su-la-mít không phải là so sánh sự sang hay hèn, mà là nhấn mạnh về sắc đẹp và sức sống.

Có một số nhà giải kinh dùng Nhã Ca 2:1 để nói về Đức Chúa Jesus Christ, theo bản dịch Thánh Kinh tiếng Anh, gọi Ngài là “Hoa Hồng Sa-rôn” và “Hoa Huệ Trong Trũng”. Vì thế mà có hai bản thánh ca: “Hoa Hồng Sa-rôn” và “Hoa Huệ Trong Trũng”. Nhưng hình ảnh của hai loại hoa này là để chỉ về Hội Thánh!

Câu (6) có thể được diễn ý như sau: Su-la-mít nói với chính mình nhưng có ý cho Sa-lô-môn nghe: Tôi xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Tôi như hoa thu thủy tiên nổi bật trên đồng cỏ tại Sa-rôn. Tôi như hoa huệ phủ đầy trên những đồng bằng. Nguyện rằng, trong ánh mắt của chàng chỉ có mỗi hình dáng yêu kiều của tôi.

Bài học thuộc linh: Hội Thánh cần phải nhận thức rằng, Hội Thánh đã được Chúa ban cho sự vinh quang của chính Ngài, ban cho sự sống từ nơi Ngài. Sự vinh quang và sự sống đó cao quý tuyệt vời hơn bất cứ sự vinh quang và sự sống nào khác trong thế gian. Hội Thánh cần chiếu ra sự vinh quang và sự sống của Chúa giữa thế gian. Hội Thánh xinh đẹp và có sức sống mãnh liệt, đến nỗi các cửa của âm phủ, tức sự chết, không thể thắng được Hội Thánh (Ma-thi-ơ 16:18).

(7) [Sa-lô-môn:] Người yêu của ta ở giữa những con gái, {là} hoa huệ ở giữa những gai góc.

Danh từ “những con gái” được dùng trong sách Nhã Ca là một danh từ có nghĩa hẹp dùng để gọi những đứa con được sinh ra mang phái tính nữ. Về nghĩa rộng thì có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chỉ công dân nữ của một thành phố hay một quốc gia; nghĩa thứ nhì là chỉ chung những thiếu nữ. Câu hát của Sa-lô-môn nhằm so sánh Su-la-mít với các thiếu nữ khác.

Câu (7) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn nói với chính mình, nhưng có ý cho Su-la-mít nghe: Người yêu dấu của tôi vô cùng xinh đẹp và đáng yêu; không người nữ nào hơn được nàng. Sự xinh đẹp và đáng yêu của bao nhiêu thiếu nữ khác không đáng gì so với nàng. Nàng nổi bật giữa họ khác nào hoa huệ của những đồng bằng ở giữa những gai góc.

Bài học thuộc linh: Đấng Christ yêu Hội Thánh của Ngài hơn tất cả mọi sự do Ngài sáng tạo. Chính Đức Thánh Linh đã so sánh tình yêu của Đấng Christ với tình yêu của chồng dành cho vợ. Dù trong vương quốc đời đời sẽ có mặt của nhiều nhóm người, và Đấng Christ yêu tất cả những ai thuộc về Ngài, nhưng Ngài yêu Hội Thánh nhiều nhất. Đấng Christ yêu Hội Thánh hơn là những thánh đồ trước thời Cựu Ước, như: A-đam, Ê-va, Ca-in, Nô-ê, Gióp, Áp-ra-ham… Đấng Christ yêu Hội Thánh hơn là những thánh đồ thời Cựu Ước, như: Môi-se, Giô-suê, Sa-mu-ên, Đa-vít, Ê-li, Ê-sai, Giê-rê-mi, Đa-ni-ên… Đấng Christ yêu Hội Thánh hơn tất cả những thánh đồ trong Kỳ Tận Thế. Và Đấng Christ yêu Hội Thánh hơn tất cả những thánh đồ trong thời ngàn năm bình an. Chúng ta thật là có phước lớn, được là một chi thể trong Hội Thánh của Chúa. Hãy biết ơn Chúa và sống thánh khiết, đáp lại tình yêu của Chúa. Đừng để cho những sự ham muốn thế gian và những sự thuộc về thế gian khiến mình phạm tội, lui đi trong đức tin, mà bị trật phần ân điển Chúa đã ban cho mình.

Chúng ta đã biết, trong số 12 sứ đồ của Chúa thì Sứ Đồ Giăng được gọi là “người mà Đức Chúa Jesus yêu” (Giăng 13:23; 19:26; 20:2; 21:7, 20). Điều đó không có nghĩa là Đức Chúa Jesus chỉ yêu có mỗi một mình Sứ Đồ Giăng. Vì trong Giăng 13:1 ghi rõ: “Ngài vẫn yêu những người thuộc về mình, {là} những người trong thế gian, Ngài vẫn yêu họ cho đến cuối cùng.” Nhưng vào thời điểm ấy, trong số tất cả những người thuộc về Ngài, được Ngài yêu, thì Ngài yêu Sứ Đồ Giăng nhiều nhất.

Chúng tôi tin rằng, sự Đức Chúa Jesus yêu người này hơn người kia lệ thuộc vào sự đáp ứng của mỗi người với tình yêu của Ngài. Giả sử A và B cùng yêu Chúa, nhưng A yêu Chúa nhiều hơn là B yêu Chúa, mà Chúa lại yêu A và B ngang nhau thì sẽ không có sự công bình và nghịch lại điều Chúa phán dạy. Chính Đức Chúa Jesus Christ đã phán dạy:

…Các ngươi đo lường mức độ nào thì {mức độ ấy} sẽ được đo lường cho các ngươi. Và đối với các ngươi {những người} nghe {lời này}, sẽ được thêm {nhiều}.” (Mác 4:24).

Đức Thánh Linh cũng đã dạy: “vì ai gieo giống gì, sẽ gặt giống ấy” (Ga-la-ti 6:7).

Có phải các thánh đồ trong Hội Thánh yêu Chúa hơn các thánh đồ trong mọi thời đại khác chăng? Chúng tôi nghĩ rằng, các thánh đồ trong Hội Thánh được gọi để chịu khổ vì danh Chúa (I Phi-e-rơ 2:21), cho nên họ hy sinh cho Chúa vì yêu Chúa hơn là các thánh đồ trong mọi thời đại khác, ngoại trừ các thánh đồ trong Kỳ Tận Thế. Các thánh đồ trong Kỳ Tận Thế cũng yêu Chúa đến mức hy sinh vì Chúa nhưng họ không thuộc về Hội Thánh, vì họ đã không đáp ứng lời kêu gọi của Chúa trước khi Chúa cất Hội Thánh ra khỏi thế gian.

Vậy, lẽ thật là:

  • Chúng ta yêu Đức Chúa Jesus Christ nhiều bao nhiêu thì sẽ được Ngài yêu lại nhiều hơn bấy nhiêu.

  • Đức Chúa Jesus Christ yêu những thánh đồ trong Hội Thánh hơn tất cả những thánh đồ trong mọi thời đại; và trong Hội Thánh có những người được Ngài yêu hơn những người khác.

  • Tình yêu đó có từ trước khi sáng thế, vì Ngài là Thiên Chúa Toàn Tri, Đấng biết hết mọi sự và biết trước ai sẽ yêu Ngài tha thiết.

Cảm tạ Chúa! Vì Ngài đã cho chúng ta được thuộc về Hội Thánh của Ngài.

(8) [Su-la-mít:] Người yêu của tôi ở giữa những con trai {là} cây táo ở giữa những cây rừng. Tôi đã khao khát {rằng}, tôi đã ngồi dưới bóng của chàng và trái của chàng ngọt ngào cho vòm miệng tôi. Chàng đưa tôi vào nhà chứa rượu; và tình yêu của chàng là cờ xí trên tôi. Hãy nâng đỡ tôi với bánh nho. Hãy làm tươi tỉnh tôi với trái táo. Vì tôi trở nên yếu đuối bởi tình yêu! {Ước gì} tay trái của chàng {kê} dưới đầu tôi, còn tay phải của chàng ôm lấy tôi.

Danh từ “những con trai” được dùng trong sách Nhã Ca là một danh từ có nghĩa hẹp dùng để gọi những đứa con được sinh ra mang phái tính nam. Về nghĩa rộng thì có hai nghĩa. Nghĩa thứ nhất là chỉ công dân nam của một thành phố hay một quốc gia; nghĩa thứ nhì là chỉ chung những thanh niên. Câu hát của Su-la-mít nhằm so sánh Sa-la-môn với các thanh niên khác.

Táo (apple) là loại cây được trồng để lấy trái. Loại táo được trồng tại xứ Ca-na-an có trái nhỏ nhưng rất ngọt và rất thơm. Táo hiếm khi được tìm thấy mọc hoang trong rừng. Câu hát của Su-la-mít hàm ý, người yêu của nàng đẹp đẽ và đáng yêu, hiếm quý hơn bao nhiêu thanh niên khác. Câu “Tôi đã khao khát {rằng}, tôi đã ngồi dưới bóng của chàng và trái của chàng ngọt ngào cho vòm miệng tôi”, hàm ý, Su-la-mít đã khao khát được giao tình với người yêu, được nếm biết thân thể của chàng, được tận hưởng khoái cảm tình dục với chàng. Trong kho tàng văn chương của các dân tộc vùng Cận Đông, cây táo được tiêu biểu cho sự lãng mạn trong tình yêu và sự sinh sản bởi tình dục. Chúng ta sẽ trở lại với ý nghĩa tình dục trong Nhã Ca 2:3 và một số câu khác của Nhã Ca, trong bài cuối cùng học về sách Nhã Ca.

Danh từ vòm miệng bao gồm tất cả các bộ phận trong miệng: răng, lợi, lưỡi, bên trong môi, bên trong má, vòm miệng, nước bọt… là những bộ phận giúp cho sự cảm nhận và thưởng thức khi chúng ta ăn, uống, nếm, và hôn. Danh từ này cũng có thể được hiểu theo nghĩa bóng là sự nếm thử, sự hiểu biết đến từ kinh nghiệm, như được dùng trong Thi Thiên 34:8, với lời mời gọi: “Hãy nếm và biết, Đấng Tự Hữu Hằng Hữu là tốt lành!”

Nhà chứa rượu cũng chính là nơi đãi tiệc. Sau khi đi dạo trong rừng hương nam thì Sa-lô-môn đã đưa Su-la-mít trở về cung điện, để cùng dự yến tiệc với các hoàng hậu và phi tần. Tại bàn tiệc, Sa-lô-môn đã ân cần chăm sóc, tiếp đãi Su-la-mít, thể hiện sự yêu thương, tôn quý Sa-lô-môn dành cho Su-la-mít trước mặt các hoàng hậu và phi tần. Thái độ, cử chỉ, hành vi của Sa-lô-môn hướng về Su-la-mít, đối với Su-la-mít là biểu hiện sự hạnh phúc trong tình yêu của Su-la-mít; như là cờ xí giương cao trên một đoàn quân chiến thắng, trở về kinh đô trong khải hoàn; như là cờ xí giương cao trên các cổng thành và các đường phố trong những ngày lễ hội, đánh dấu sự vui mừng, hoan lạc.

Bánh nho là loại bánh làm bằng nho khô được ép lại với bột mì. Đây là thức ăn ngon miệng được dân Trung Đông ưa thích. Các dân tộc vùng Trung Đông tin rằng bánh nho và trái táo có đặc tính giúp tăng cường sinh lực trong quan hệ tình dục, giúp ích cho việc lưu truyền dòng giống. Thời xưa, tại Trung Đông, bánh nho và trái táo thường được dùng để đãi khách trong các bữa tiệc.

Động từ “nâng đỡ” có nghĩa là phục hồi hay giúp cho một người được vững vàng. Động từ “làm tươi tỉnh” có nghĩa là làm cho một người được thoải mái và lấy lại sức. Sau buổi đi dạo trong rừng hương nam, Su-la-mít choáng ngợp trước sự thể hiện tình yêu của Sa-lô-môn và có cảm giác bị mất sức. Nàng muốn được ăn một món ăn nhẹ nào đó để lấy lại sức.

Tuy nhiên, sự thực là Su-la-mít đang bị ngất ngây với những khao khát được quan hệ tình dục với người yêu. Điều mà nàng muốn là được giao tình với Sa-lô-môn.

Động từ “ôm” vừa có nghĩa bình thường là ôm, vừa có nghĩa là ôm ấp và ve vuốt, diễn tả hoạt động tình dục giữa vợ chồng.

Câu (8) có thể được diễn ý như sau: Su-la-mít nói với chính mình: Người yêu dấu của tôi ở giữa những con trai, hiếm quý như cây táo ở giữa những cây rừng. Tôi đã khao khát được nép người vào chàng, tận hưởng sự ngọt ngào của thân thể chàng. Chàng đã đưa tôi vào phòng ăn trong cung điện, nơi đó có bàn tiệc thịnh soạn. Trước mặt các hoàng hậu và phi tần, tình yêu của chàng thể hiện qua sự chàng chăm sóc tôi, như là cờ xí mang huy hiệu của chàng giương ra trên tôi, làm dấu cho mọi người biết rằng, tôi thuộc về chàng. Lòng tôi ngây ngất, đắm say hương vị của tình yêu, khiến cho thân thể của tôi trở nên yếu đuối. Xin hãy cho tôi được ăn bánh nho và trái táo để tôi được bổ sức lại. Nhưng tôi biết rằng, điều mà tôi thật sự khao khát là được chàng kê tay trái của chàng dưới đầu tôi, và tay phải của chàng ôm lấy tôi, vuốt ve tôi, để tôi được gắn bó với chàng, được vui thỏa trong tình yêu của chàng.

Bài học thuộc linh: Đấng Christ là người chồng hứa của Hội Thánh (II Cô-rinh-tô 11:2). Một ngày kia, không còn bao lâu nữa, Hội Thánh sẽ được kết hiệp làm một với Ngài cách mầu nhiệm trong Lễ Cưới Chiên Con (Khải Huyền 19:7-9). Hiện tại, trong giai đoạn hứa hôn, Hội Thánh vẫn có sự thông công mật thiết với Đấng Christ, kinh nghiệm sự yêu thương của Đấng Christ dành cho Hội Thánh, và khao khát ngày được hiệp một với Đấng Christ trong thiên đàng.

Hình Minh họa: Linh dương


Hình minh họa: Nai cái của đồng nội

(9) [Su-la-mít:] Hỡi những con gái của Giê-ru-sa-lem! Ta nài xin các ngươi, {như đối} với những con linh dương và với những con nai cái của đồng nội, chớ kinh động, chớ làm tỉnh thức tình yêu, cho đến khi nó sẵn lòng.

Linh dương (gazelle) bao gồm nhiều loại và nai cái (deer) của đồng nội đều có thân hình thon nhỏ, và rất nhanh nhẹn. Chúng có thể được chăn nuôi và nhận biết người chăn nhưng sẽ bỏ chạy khi bị kinh động bất ngờ.

Có lẽ các hoàng hậu và phi tần có những lời xúi giục Su-la-mít hãy bước vào trong sự giao tình với Sa-lô-môn; để họ có lý do nói xấu nàng. Vì theo phong tục, vợ chồng trong thời kỳ đính hôn không thể có quan hệ tình dục. Sự quan hệ tình dục chỉ có thể xảy ra sau hôn lễ.

Su-la-mít dù có bị cám dỗ bởi những khao khát tình dục (1:2; 2:3, 6) nhưng nàng đã giữ gìn sự trong sáng của tình yêu. Nàng yêu cầu họ đừng xúi giục nàng phạm tội. Nàng ví tình yêu đẹp đẽ như những con linh dương và nai cái của đồng nội, nhưng sự tiếp cận, thân mật với chúng cần có thời gian, nếu không, chúng sẽ bỏ chạy cách nhanh chóng. Trong tình yêu nam nữ, sự quan hệ tình dục phải đúng thời điểm, theo đúng lễ nghi. Sự quan hệ tình dục trước ngày cưới, dù là giữa hai người đã đính hôn, sẽ khiến cho mất đi sự cao đẹp và thánh khiết của tình yêu vợ chồng trong Chúa.

Su-la-mít còn đối diện với sự cám dỗ, xúi giục của các hoàng hậu và phi tần một lần nữa, trước ngày cưới (3:5).

Câu (9) có thể được diễn ý như sau: Su-la-mít nói với các hoàng hậu và phi tần: Hỡi các chị em! Xin đừng xúi giục tôi buông mình vào sự quan hệ tình dục trước ngày cưới. Vì sự cao đẹp, thánh khiết của tình yêu sẽ nhanh chóng biến đi khi sự thỏa mãn tình dục xảy ra ngoài lễ nghi. Như những con linh dương và những con nai cái của đồng nội xinh đẹp sẽ nhanh chóng bỏ chạy, vì chúng bị làm kinh động trước khi chúng làm quen với sự tiếp cận của loài người.

Bài học thuộc linh: Sự cám dỗ phạm tội tà dâm luôn xảy ra và tội tà dâm xảy ra nhiều nhất trong các loại tội. Ngày nay, sự phạm tội tà dâm dưới đủ mọi hình thức, đã trở thành một nền công nghiệp đem lại lợi tức lớn cho những người đầu tư nó. Theo thống kê, tổng giá trị tài sản của kỹ nghệ tà dâm lên đến 97 tỷ đô-la, đủ để nuôi sống toàn thể dân số nước Mỹ (323.400.000) trong một tháng, nếu tiền ăn của mỗi người vào khoảng 10 đô-la một ngày. Mỗi năm, kỹ nghệ tà dâm phát hành khoảng 1.500 bộ phim khiêu dâm, thu về khoảng 15 tỷ đô-la tiền lời. Trong số đó, Hollywood phát hành khoảng 600 bộ phim và thu về khoảng 10 tỷ đô-la. Trong năm 2017, chỉ riêng nhà cung cấp phim khiêu dâm trên Internet lớn nhất đã cung cấp đến trên 87 tỷ lượt người xem [2]. Chắc chắn, kỹ nghệ tà dâm đã góp phần tích cực trong việc cám dỗ và tạo điều kiện, phương tiện cho người ta phạm tà dâm.

Là con dân Chúa, chúng ta phải giữ mình thánh sạch, không phạm tà dâm. Khi chúng ta phạm tà dâm thuộc thể thì chúng ta cũng phạm tà dâm thuộc linh, vì xem sự thỏa mãn tình dục lớn hơn sự kính sợ Thiên Chúa. Để tránh sự cám dỗ phạm tà dâm, chúng ta triệt để tránh sự gần gũi, va chạm thân thể với người khác phái, kể cả với vợ hứa hay chồng hứa. Nam nữ tránh ngồi gần nhau, nhất là tránh ngồi chung xe máy với nhau.

Đến đây chúng ta đã hoàn tất việc tìm hiểu ý nghĩa của Nhã Ca 1:9-2:7. Chúng tôi xin tổng hợp những lời chúng tôi diễn ý về Nhã Ca 1:9-2:7, như sau:

Hỡi người yêu dấu của anh! Đừng quan tâm đến những lời ganh tỵ, chứa đầy ác ý. Đối với anh, em xinh đẹp và khoẻ mạnh như con ngựa cái xinh đẹp, quý giá, và thân thiết của anh, dạn dĩ và nổi bật giữa bầy chiến mã kéo những chiến xa của Pha-ra-ôn. Những lọn tóc buông lơi của em, những lọn nữ trang từ vòng cài tóc của em, và đôi lọn hoa tai của em làm nổi bật nét xinh đẹp của đôi gò má em. Và chuỗi trân châu cao sang làm nổi bật nét đẹp tôn quý của cổ em.

Hỡi người được vua tôn quý, yêu thương! Chúng tôi sẽ làm cho nàng những sợi chuyền vàng với các chồi bạc, để làm tôn cao nét đẹp của nàng. Xin hãy thứ lỗi cho chúng tôi.

Trong khi vua ở phía trước, phía sau, và bên cạnh tôi, thì cam tòng hương được xức trên thân thể của tôi xông mùi thơm êm dịu của nó ra, làm cho chàng được sảng khoái. Tình yêu của tôi dành cho chàng tỏa ngát đến chàng, không khác gì hương thơm của cam tòng hương. Người yêu của tôi thơm như một dược, khác nào hương thơm của túi một dược nằm suốt đêm giữa bờ ngực tôi. Tình yêu của chàng ấp ủ tôi trong giấc ngủ, cũng không khác gì hương thơm của một dược. Người yêu của tôi tươi sáng và đẹp đẽ, khác nào chùm hoa phụng tiên trong những vườn nho của En Ghê-đi.

Hỡi người yêu dấu của anh! Hãy nghe lời anh nói! Em thật là xinh đẹp! Em xinh đẹp từ thể xác đến tâm thần. Đôi mắt em xinh đẹp như mắt của bồ câu, chiếu ra sự đơn sơ, thánh khiết, nhu mì, bình an trong em, và chiếu ra tình yêu tha thiết của em dành cho anh, khiến cho anh được đầy sự vui thỏa khi ở gần bên em.

Anh yêu dấu của em ơi! Hãy nghe em nói! Anh thật là đẹp đẽ và đáng yêu! Chỉ cần có anh ở bên cạnh là em hạnh phúc. Em chỉ cần có anh là đủ! Em không màng đến cung vàng, điện ngọc. Thảm cỏ xanh tươi này khác nào giường nằm của chúng ta? Những cành hương nam kia khác nào những rường nhà của chúng ta? Và những cành tùng kia khác nào những kèo nhà của chúng ta?

Tôi xinh đẹp và tràn đầy sức sống. Tôi như hoa thu thủy tiên nổi bật trên đồng cỏ tại Sa-rôn. Tôi như hoa huệ phủ đầy trên những đồng bằng. Nguyện rằng, trong ánh mắt của chàng chỉ có mỗi hình dáng yêu kiều của tôi.

Người yêu dấu của tôi vô cùng xinh đẹp và đáng yêu; không người nữ nào hơn được nàng. Sự xinh đẹp và đáng yêu của bao nhiêu thiếu nữ khác không đáng gì so với nàng. Nàng nổi bật giữa họ khác nào hoa huệ của những đồng bằng ở giữa những gai góc.

Người yêu dấu của tôi ở giữa những con trai, hiếm quý như cây táo ở giữa những cây rừng. Tôi đã khao khát được nép người vào chàng, tận hưởng sự ngọt ngào của thân thể chàng. Chàng đã đưa tôi vào phòng ăn trong cung điện, nơi đó có bàn tiệc thịnh soạn. Trước mặt các hoàng hậu và phi tần, tình yêu của chàng thể hiện qua sự chàng chăm sóc tôi, như là cờ xí mang huy hiệu của chàng giương ra trên tôi, làm dấu cho mọi người biết rằng, tôi thuộc về chàng. Lòng tôi ngây ngất, đắm say hương vị của tình yêu, khiến cho thân thể của tôi trở nên yếu đuối. Xin hãy cho tôi được ăn bánh nho và trái táo để tôi được bổ sức lại. Nhưng tôi biết rằng, điều mà tôi thật sự khao khát là được chàng kê tay trái của chàng dưới đầu tôi, và tay phải của chàng ôm lấy tôi, vuốt ve tôi, để tôi được gắn bó với chàng, được vui thỏa trong tình yêu của chàng.

Hỡi các chị em! Xin đừng xúi giục tôi buông mình vào sự quan hệ tình dục trước ngày cưới. Vì sự cao đẹp, thánh khiết của tình yêu sẽ nhanh chóng biến đi khi sự thỏa mãn tình dục xảy ra ngoài lễ nghi. Như những con linh dương và những con nai cái của đồng nội xinh đẹp sẽ nhanh chóng bỏ chạy, vì chúng bị làm kinh động trước khi chúng làm quen với sự tiếp cận của loài người.

Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Thiên Chúa bao phủ mỗi một chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
15/09/2018

Chú Thích

A. Karaoke Thánh Ca: “Ôi! Tình Chúa!”
https://www.timhieuthanhkinh.com/karaoke/oi-tinh-chua/

B. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.

[1] http://www.kkl-jnf.org/tourism-and-recreation/forests-and-parks/jerusalem-forest.aspx

[2] https://medium.com/@Strange_bt_True/how-big-is-the-porn-industry-fbc1ac78091b