Chú Giải Nhã Ca 06:04-13

2,381 views

22009 Chú Giải Nhã Ca 6:4-13
Tình Yêu Không Chấp Nhặt
Sa-lô-môn Nhận Thức Giá Trị của Su-la-mít

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/d/MV8xNzM2MTg1ODhf/22009NhaCa_09_GiaTriCuaSulamit_06_4-13.mp3
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/22009nhaca_09_giatricuasulamit_06_4-13
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/2ktdlp09caaka1d/22009NhaCa_09_GiaTriCuaSulamit_06_4-13.mp3/file

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
Amazon Drive: https://www.amazon.com/clouddrive/share/EERPUwTASJiTF0aRyt5inO35U3LZbPYs8qE7kOvo5oU
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Ngày Chúa đến đã quá gần. Kính xin quý con dân Chúa tích cực bằng mọi phương tiện, mọi cách phổ biến bài giảng này đến tất cả những con dân Chúa mình quen biết, để dự phần trong việc gây dựng lẫn nhau trong Hội Thánh, giúp nhau sống đúng theo Lời Chúa, sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ. Xin cám ơn quý con dân Chúa. (Xin đọc bài này: http://www.timhieutinlanh.net/trach-nhiem-cua-con-dan-chua-khi-pho-bien-hoac-khong-pho-bien-mot-bai-giang/).

Nhã Ca 6:4-13

4 [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Em xinh đẹp như Tiệt-sa, xinh đẹp như Giê-ru-sa-lem, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí.

5 Hãy xoay mắt em khỏi ta, vì chúng làm cho ta bối rối. Tóc em như bầy dê nằm trên núi Ga-la-át.

6 Răng em như bầy chiên cái, từ chỗ tắm rửa đi lên. Hết thảy đều có đôi, không một con nào lẻ cặp.

7 Sau khăn che, đôi gò má em {tươi hồng} như miếng thạch lựu.

8 Có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và vô số nữ đồng trinh [cung nữ].

9 {Nhưng} Chim bồ câu của ta, người toàn hảo của ta, nàng {là có} một. Nàng {là} con một của mẹ nàng. Nàng {là} sự lựa chọn của người đã sinh ra nàng. Những con gái đều thấy nàng và gọi nàng {là người} có phước. Những hoàng hậu và những cung phi cũng ca ngợi nàng.

10 [Dân chúng:] Người này là ai, nghiêng mình như bình minh, xinh đẹp như mặt trăng, tinh sạch như mặt trời, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí.

11 [Su-la-mít:] Tôi đi xuống vườn hạnh đào, để xem cây cỏ xanh tươi của trũng, để xem nho đã trổ đọt, thạch lựu đã nở hoa chưa.

12 Tôi không ngờ, sự khao khát của lòng tôi đã đặt tôi {giữa} những chiến xa của những người quý tộc.

13 [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Hãy trở về! Hãy trở về! Hỡi Su-la-mít! Hãy trở về! Hãy trở về để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng chị. [Sa-lô-môn:] Các ngươi nhìn thấy gì nơi Su-la-mít, có phải như điệu múa của đoàn vũ công?

Kính thưa Hội Thánh,

Qua các bài trước, chúng ta đã nhận thấy Sa-lô-môn tha thiết yêu Su-la-mít và Su-la-mít cũng tha thiết yêu Sa-lô-môn. Tuy nhiên, khi so sánh tình yêu của hai người đối với nhau, chúng ta thấy Sa-lô-môn luôn hết lòng với Su-la-mít, trong khi Su-la-mít ít nhất có một lần đã tỏ ra là chưa hết lòng với Sa-lô-môn.

Yêu tha thiết một người là muốn chiếm hữu người ấy, muốn người ấy thuộc về mình. Nhưng hết lòng với người mình yêu là sẵn sàng hy sinh mọi sự, trong mọi nơi, trong mọi lúc vì sự an vui và ích lợi của người mình yêu.

Sa-lô-môn không ngại đường xa, phải leo qua các ngọn đồi, vượt qua các gò, các cánh đồng để đến thăm Su-la-mít. Dù bận việc quốc gia, nhưng khi có thể thì Sa-lô-môn vội tìm đến với Su-la-mít, cho dù là trời đã quá khuya, sương đêm thấm lạnh. Còn Su-la-mít thì ngại phải mặc lại áo, ngại bị lấm chân, khi phải ra khỏi chiếc giường êm ấm của mình, để mở cửa cho Sa-lô-môn.

Trong bài này, chúng ta sẽ cùng nhau học về cách Sa-lô-môn cư xử với Su-la-mít, sau khi Su-la-mít đã phạm lỗi chưa hết lòng trong tình yêu đối với Sa-lô-môn.

Dưới đây là sự phân câu theo văn mạch của Nhã Ca 6:4-13

I. Giai đoạn đính hôn (1:2-3:5)

A. Tình yêu dành cho nhau (1:2-2:7)

1. Tình yêu của Su-la-mít dành cho Sa-lô-môn (1:2-8)

2. Ngôn ngữ của tình yêu (1:9-2:7)

B. Tình yêu chín muồi (2:8-3:5)

1. Mùa xuân của tình yêu (2:8-17)

2. Nỗi lo trong tình yêu (3:1-5)

II. Hôn lễ (3:6-5:1)

A. Cảnh rước dâu (3:6-11)

B. Đêm tân hôn (4:1-5:1)

III. Đời sống hôn nhân (5:2-8:14)

A. Lỗi nhỏ trong tình yêu (5:2-6:3)

1. Một khoảnh khắc thiếu quyết định (5:2-5:8)

2. Nhớ người yêu (5:9-6:3)

B. Tình yêu không chấp nhặt (6:4-7:9)

1. Sa-lô-môn nhận thức giá trị của Su-la-mít (6:4-13)

(1) [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Em xinh đẹp như Tiệt-sa, xinh đẹp như Giê-ru-sa-lem, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí. Hãy xoay mắt em khỏi ta, vì chúng làm cho ta bối rối. Tóc em như bầy dê nằm trên núi Ga-la-át. Răng em như bầy chiên cái, từ chỗ tắm rửa đi lên. Hết thảy đều có đôi, không một con nào lẻ cặp. Sau khăn che, đôi gò má em {tươi hồng} như miếng thạch lựu.

(2) Có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và vô số nữ đồng trinh [cung nữ]. {Nhưng} Chim bồ câu của ta, người toàn hảo của ta, nàng {là có} một. Nàng {là} con một của mẹ nàng. Nàng {là} sự lựa chọn của người đã sinh ra nàng. Những con gái đều thấy nàng và gọi nàng {là người} có phước. Những hoàng hậu và những cung phi cũng ca ngợi nàng.

(3) [Dân chúng:] Người này là ai, nghiêng mình như bình minh, xinh đẹp như mặt trăng, tinh sạch như mặt trời, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí.

(4) [Su-la-mít:] Tôi đi xuống vườn hạnh đào, để xem cây cỏ xanh tươi của trũng, để xem nho đã trổ đọt, thạch lựu đã nở hoa chưa. Tôi không ngờ, sự khao khát của lòng tôi đã đặt tôi {giữa} những chiến xa của những người quý tộc.

(5) [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Hãy trở về! Hãy trở về! Hỡi Su-la-mít! Hãy trở về! Hãy trở về để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng chị.

(6) [Sa-lô-môn:] Các ngươi nhìn thấy gì nơi Su-la-mít, có phải như điệu múa của đoàn vũ công?

Tiếp theo đây, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từng câu:

(1) [Sa-lô-môn:] Hỡi người yêu của ta! Em xinh đẹp như Tiệt-sa, xinh đẹp như Giê-ru-sa-lem, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí. Hãy xoay mắt em khỏi ta, vì chúng làm cho ta bối rối. Tóc em như bầy dê nằm trên núi Ga-la-át. Răng em như bầy chiên cái, từ chỗ tắm rửa đi lên. Hết thảy đều có đôi, không một con nào lẻ cặp. Sau khăn che, đôi gò má em {tươi hồng} như miếng thạch lựu.

Khi Su-la-mít đến được vườn nho và gặp được Sa-lô-môn, thì Sa-lô-môn đã không hề có một lời trách, dù là trách nhẹ, về việc nàng đã không mở cửa khi ông gọi cửa. Lời nói của Sa-lô-môn không hàm chứa một sự khó chịu, giận dỗi nào, ngay cả không nhắc lại việc ông đến gõ cửa. Thái độ đó cho thấy, Sa-lô-môn nghĩ cho người yêu hơn là nghĩ cho mình. Sau một cuộc đi xa hoặc sau một ngày làm việc kéo dài, Sa-lô-môn nhớ vợ và vội vã đến thăm vợ. Nhưng khi vợ không thức dậy để mở cửa thì ông đã bỏ đi, chứ không làm ầm ĩ, để buộc vợ phải thức dậy, mở cửa cho mình. Ông hiểu rằng, có thể vợ mình đã ngủ say, không nghe tiếng gọi cửa của mình. Rồi khi thấy vợ đến tìm mình, Sa-lô-môn đã không nhắc lại việc ông đến gọi cửa, có lẽ vì không muốn vợ có mặc cảm là nàng đã không tỉnh ngủ để mở cửa cho chồng. Mà ông vui mừng, chào đón vợ với những lời yêu thương, tình tứ.

Chúng ta có thể đoán là, trước khi đi xuống vườn nho tìm chồng, Su-la-mít đã thay trang phục chỉnh tề, đã trang điểm để ra mắt chồng. Vì thế, trong ánh nắng sớm, Sa-lô-môn nhìn thấy người yêu của mình “xinh đẹp như Tiệt-sa, xinh đẹp như Giê-ru-sa-lem, đáng sợ như đoàn quân giương những cờ xí”.

Tiệt-sa (Tirzah) có nghĩa là đáng ưa chuộng, là tên kinh đô của một vương quốc nhỏ trong xứ Ca-na-an, ở về phía tây của sông Giô-đanh, bị chinh phục bởi Giô-suê và dân I-sơ-ra-ên (Giô-suê 12:24). Tiệt-sa nằm trong lô đất được chia cho chi phái Ép-ra-im, và về sau, khi I-sơ-ra-ên bị chia thành hai vương quốc bởi sự phạm tội của Sa-lô-môn, thì Tiệt-sa đã được nhiều triều vua của vương quốc phía bắc dùng làm kinh đô. Sa-lô-môn ví sắc đẹp của Su-la-mít như sự sang đẹp của hai thành đẹp nhất đất nước I-sơ-ra-ên thời bấy giờ, thành Tiệt-sa ở phía bắc và thành Giê-ru-sa-lem ở phía nam. Cũng có thể, Sa-lô-môn có ý ví sắc đẹp của Su-la-mít như sắc đẹp tổng hợp của những cô gái đẹp ở Tiệt-sa và Giê-ru-sa-lem; tương tự như cách nói ngày nay của chúng ta: Cô gái Hà Nội, cô gái Huế, cô gái Saigon, cô gái Cần Thơ…

Đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí”: Một thành ngữ chỉ sự đẹp đẽ uy nghiêm, như: bầu trời đêm sáng rực những vì sao; một rặng núi cao, hùng vĩ; một đoàn quân đông và hùng mạnh… Sa-lô-môn có ý nói sắc đẹp của Su-la-mít chẳng những dịu dàng, tươi sáng, mà còn có nét nghiêm trang, khiến người nhìn thấy phải sinh lòng yêu quý và kính phục, khác với nét đẹp lả lơi, buông thả, thể hiện sự trác táng. Văn chương Trung Quốc có mấy câu thơ:

Bắc phương hữu giai nhân,

Tuyệt thế nhi độc lập,

Nhất cố khuynh nhân thành,

Tái cố khuynh nhân quốc.

Nghĩa là: “Phương bắc có người đẹp. Hơn hết trong đời, đứng một mình. Nhìn qua một cái khiến nghiêng thành của người. Nhìn lại khiến nghiêng nước của người.” Mấy câu thơ ấy dùng để ca ngợi sắc đẹp của một người vô cùng đẹp, mà chỉ một cái nhìn có thể làm cho tướng mất thành, làm cho vua mất nước. Thật, sắc đẹp như vậy đúng là “đáng sợ như đoàn quân giương những cờ xí”.

Hãy xoay mắt em khỏi ta, vì chúng làm cho ta bối rối: Động từ “làm cho bối rối” trong câu này có thể dịch là: làm cho rung động trong lòng đến mức chịu không nổi. Su-la-mít đến tìm Sa-lô-môn với lòng ăn năn, hối tiếc về sự chưa hết lòng của mình trong tình yêu. Ánh mắt nồng nàn, tha thiết của Su-la-mít vốn làm mềm lòng Sa-lô-môn (4:9), nay lại thêm nét hối tiếc, ngại ngùng, vì chưa hết lòng với chồng, đã trở nên đẹp não nùng, khiến cho Sa-lô-môn không thể nhìn lâu vào mắt nàng.

Tóc em như bầy dê nằm trên núi Ga-la-át (4:1): Sa-lô-môn ví mái tóc đen, mịn của Su-la-mít xinh đẹp như bầy dê lông đen mập mạp, khỏe mạnh vì được chăn trên những đồng cỏ xanh tươi nơi vùng núi Ga-la-át. Núi Ga-la-át thật ra là một vùng đất cao, bao gồm nhiều ngọn đồi, nằm về phía đông của sông Giô-đanh, ngày nay thuộc lãnh thổ của nước Giô-đanh (Jordan). Lông dê đen là một đặc sản quý của vùng Trung Đông thường được dùng làm lều, áo choàng, thảm…

Răng em như bầy chiên cái, từ chỗ tắm rửa đi lên. Hết thảy đều có đôi, không một con nào lẻ cặp (4:2): Đôi hàm răng của Su-la-mít trắng và đều đặn, sạch, đẹp, được Sa-lô-môn ví như từng đôi chiên cái, từ chỗ tắm rửa đi lên.

Sau khăn che, đôi gò má em {tươi hồng} như miếng thạch lựu (4:3): Đôi gò má của Su-la-mít ửng hồng màu thạch lựu mà tấm khăn mỏng che mặt màu trắng càng làm tôn nét thẹn thò, e ấp.

Câu (1) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn nói với Su-la-mít: Hỡi người yêu dấu của anh! Em xinh đẹp vô cùng! Sắc đẹp của em bao gồm sắc đẹp của tất cả những thiếu nữ xinh đẹp của thành Tiệt-sa và thành Giê-ru-sa-lem. Em đẹp rực rỡ và trang nghiêm như đoàn hùng binh, như rặng núi cao hùng vĩ, như bầu trời đêm sáng rực những vì sao. Anh xin em đừng nhìn anh bằng ánh mắt tha thiết, não nùng ấy, vì tim anh không thể chịu đựng nổi những cảm xúc đang dâng trào. Tóc em đen mịn, đẹp khác nào lớp lông đen của bầy dê khoẻ, mập, nằm nghỉ ngơi trên núi Ga-la-át. Đôi hàm răng em trắng và đều như bầy chiên cái được tắm sạch. Hết thảy đều có đôi, cân đối với nhau. Tấm khăn che cũng không thể giấu đi đôi gò má em tươi hồng như màu hồng của thạch lựu.

Bài học thuộc linh: Dù chúng ta vẫn có khi phạm lỗi, phạm tội, nhưng Đấng Christ yêu chúng ta vô cùng. Ngài đồng cảm với sự yếu đuối của chúng ta. Thánh Kinh chép:

Vì chúng ta không có thầy tế lễ thượng phẩm chẳng thể cảm thương những sự yếu đuối của chúng ta; nhưng {Ngài đã trải qua} suốt mọi sự cám dỗ, thử thách như {chúng ta} mà không phạm tội.” (Hê-bơ-rơ 4:15).

Chính vì Ngài đã trải qua suốt mọi sự cám dỗ, thử thách mà Ngài đồng cảm cho sự yếu đuối của chúng ta, không trách móc chúng ta, khi chúng ta lỡ vấp phạm, miễn là chúng ta không cố ý sống trong tội; và biết ăn năn khi lỡ phạm tội. Hãy nhớ đến câu chuyện Phi-e-rơ chối Chúa!

Đấng Christ sẽ luôn nhìn chúng ta qua sự vinh quang của Đức Chúa Trời mà Ngài đã nhận lãnh từ Đức Chúa Trời, và đã ban cho chúng ta. Đó là sự vinh quang của một con người xác thịt nhưng được ban cho danh xưng “Đức Chúa Trời”; vì con người ấy đã sống yêu thương, thánh khiết, và công chính cách trọn vẹn như Đức Chúa Trời.

Chúng tôi xin nhắc lại nơi đây, Đức Chúa Jesus Christ có:

  • Sự vinh quang của Thiên Chúa trong thân vị Thiên Chúa Ngôi Lời (Giăng1:1-4; Ê-sai 6:3; Giăng 12:41), là sự vinh quang đồng tự có với Đức Chúa Trời và Đức Thánh Linh từ đời đời cho đến đời đời.

  • Sự vinh quang trong thân vị loài người do Đức Chúa Trời ban cho Ngài, bằng cách ban cho Ngài danh xưng Đức Chúa Trời (Giăng 17:11, 22; Hê-bơ-rơ 1:8-9). Ngài đã ban cho Hội Thánh sự vinh quang này, chính vì thế mà Hội Thánh xứng đáng có quyền mở và buộc, quyền tha tội và cầm tội (Ma-thi-ơ 16:19; Giăng 20:23).

  • Sự vinh quang do Hội Thánh đem lại cho Ngài qua các việc làm công bình của Hội Thánh, vì Hội Thánh là thân thể của Ngài (Ê-phê-sô 1:23; Khải Huyền 19:8).

Nét đẹp của Hội Thánh vừa là sự vinh quang do Đấng Christ ban cho, vừa là sự vinh quang được tạo nên bởi những việc làm công bình của mỗi con dân Chúa trong Hội Thánh.

(2) Có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và vô số nữ đồng trinh [cung nữ]. {Nhưng} Chim bồ câu của ta, người toàn hảo của ta, nàng {là có} một. Nàng {là} con một của mẹ nàng. Nàng {là} sự lựa chọn của người đã sinh ra nàng. Những con gái đều thấy nàng và gọi nàng {là người} có phước. Những hoàng hậu và những cung phi cũng ca ngợi nàng.

Chúng ta không biết Sa-lô-môn kết hôn với Su-la-mít vào thời điểm nào trong cuộc đời của ông, nhưng vào thời điểm câu chuyện được ghi lại trong Nhã Ca 6, thì Sa-lô-môn đã có 60 hoàng hậu và 80 cung phi. Chúng ta cũng không biết có phải con số 60 hoàng hậu bao gồm Su-la-mít hay không. Ngoài ra, còn có vô số cung nữ phụ trách hầu việc cho vua, cho các hoàng hậu, và cho các cung phi đều là những nữ đồng trinh, mà có lẽ nhan sắc cũng xinh đẹp, nói năng dịu dàng. Thế nhưng, Sa-lô-môn không tìm thấy trong số họ, có ai giống như Su-la-mít. Một lần nữa, Sa-lô-môn dùng cách gọi âu yếm, mà ông đã dùng khi gọi cửa đêm qua, để gọi Su-la-mít: Chim bồ câu của ta! Người toàn hảo của ta!

Danh từ “người toàn hảo” Sa-lô-môn dùng để gọi Su-la-mít là để chỉ sự trọn vẹn từ tư cách đến ngoại hình.

Nàng là có một: Trong tất cả những người nữ mà Sa-lô-môn từng gặp, không có ai sánh bằng Su-la-mít.

Nàng là con một của mẹ nàng: Không có nghĩa Su-la-mít là người con duy nhất của mẹ nàng, mà là, nàng là người con đặc biệt của mẹ nàng. Chúng ta biết rằng, Su-la-mít có nhiều người anh. Tương tự như vậy, khi danh từ “con một” được dành cho Đức Chúa Jesus, thì có ý nói, Ngài là người được Đức Chúa Trời sinh ra và được Đức Chúa Trời yêu quý cách đặc biệt, chứ không có nghĩa Đức Chúa Trời chỉ sinh ra một mình Đức Chúa Jesus. Vì sau Đức Chúa Jesus, tất cả những ai tin nhận Tin Lành đều được Đức Chúa Trời sinh ra thành người mới. Xét về quan hệ xác thịt, Đức Chúa Jesus là con trưởng và anh cả của mọi thánh đồ (Rô-ma 8:29).

Nàng là sự chọn lựa của người đã sinh ra nàng: Su-la-mít được mẹ yêu quý hơn những người con khác.

Những con gái đều thấy nàng và gọi nàng {là người} có phước: Hàm ý, các thiếu nữ nhìn thấy Su-la-mít thì đều nhìn thấy sự toàn hảo của nàng, và họ nhận biết rằng, sự toàn hảo đó do Chúa ban cho Su-la-mít, nên họ gọi nàng là người có phước. Tương tự như lời của Ê-li-sa-bét gọi Ma-ri là “Ngươi có phước trong những người nữ!” (Lu-ca 1:42).

Những hoàng hậu và những cung phi cũng ca ngợi nàng: Dù có thể trong lòng của những hoàng hậu và cung phi có sự ganh tỵ với Su-la-mít, nhưng trước sự toàn hảo của Su-la-mít, họ cũng phải nói ra lời ca ngợi nàng.

Câu (2) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn nói với Su-la-mít: Mặc dù có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và vô số nữ đồng trinh chung quanh anh; nhưng chim bồ câu của anh, người toàn hảo của anh ơi! Không ai có thể sánh bằng em! Em là người yêu duy nhất trong lòng anh! Em là đứa con yêu dấu tuyệt vời của mẹ em! Em là sự hãnh diện của mẹ em! Những thiếu nữ nhìn thấy em đều gọi em là người có phước. Những hoàng hậu và những cung phi cũng phải cất tiếng ca ngợi em.

Bài học thuộc linh: Đấng Christ yêu Hội Thánh và khiến cho Hội Thánh được toàn hảo, được tôn quý trên tất cả muôn loài thọ tạo, bằng sự hiệp một cách nhiệm mầu với Hội Thánh. Trong ngày vinh quang ấy, các thiên sứ, các thánh đồ ngoài Hội Thánh trong mọi thời đại, đều sẽ cất tiếng ca ngợi Hội Thánh, gọi Hội Thánh là những người được phước.

(3) [Dân chúng:] Người này là ai, nghiêng mình như bình minh, xinh đẹp như mặt trăng, tinh sạch như mặt trời, đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí.

Câu hát này có thể đến từ dân chúng hoặc các nhà quý tộc đến tham quan vườn nho của Sa-lô-môn. Họ nhìn thấy sắc đẹp lộng lẫy nhưng nghiêm trang và cao quý của Su-la-mít thì đã thốt lên lời ca ngợi.

Người này là ai: Nếu là dân chúng, có thể họ không biết Su-la-mít là ai. Nếu là các nhà quý tộc, có thể họ biết Su-la-mít là ai, nhưng sự trang điểm và trang phục của Su-la-mít vào lúc đó khiến cho họ không nhận ra nàng.

Nghiêng mình như bình minh: Nét tươi sáng, rực rỡ của Su-la-mít được ví như bầu trời lúc bình minh. Động từ “nghiêng mình” trong nguyên ngữ Hê-bơ-rơ dùng để chỉ sự từ trên cao, nghiêng mình nhìn xuống.

Xinh đẹp như mặt trăng: Nét dịu dàng, trang nhã của Su-la-mít được ví như nét đẹp của mặt trăng.

Tinh sạch như mặt trời: Nét thánh khiết, trang nghiêm của Su-la-mít được ví như sự tinh sạch của mặt trời.

Đáng sợ như {đoàn quân giương} những cờ xí: Sắc đẹp của Su-la-mít có thể khuynh thành, khuynh quốc, không khác gì sức mạnh của đoàn quân đông và mạnh sức.

Câu (3) có thể được diễn ý như sau: Những người tham quan vườn nho của Sa-lô-môn trầm trồ về sắc đẹp của Su-la-mít: Người nữ xinh đẹp này là ai? Nàng tươi sáng, rực rỡ như bình minh; Nàng dịu dàng, trang nhã như trăng rằm. Nàng trong sạch và uy nghiêm như mặt trời. Sắc đẹp của nàng có mãnh lực khiến cho tướng mất thành, khiến cho vua mất nước.

Bài học thuộc linh: Hội Thánh phải được thế gian nhìn thấy nét đẹp của mình, tức là nhìn thấy sự vinh quang của Thiên Chúa chiếu rực rỡ qua nếp sống của mỗi con dân Chúa, đến nỗi, thế gian phải mở miệng tôn vinh Đức Chúa Trời:

Các ngươi là sự sáng của thế gian. Một cái thành nằm trên núi thì không thể bị khuất được.” (Ma-thi-ơ 5:14).

Sự sáng của các ngươi hãy soi trước mặt người ta như vậy, để họ thấy những việc lành của các ngươi, và tôn vinh Cha của các ngươi, Đấng ở trên trời.” (Ma-thi-ơ 5:16).

Hội Thánh nhu mì và khiêm nhường theo gương của Đấng Christ, luôn tôn trọng người khác hơn mình. Hội Thánh yêu thương mọi người bằng tình yêu của Chúa, yêu cả kẻ thù, thương xót và làm ơn cho kẻ thù. Hội Thánh trong sạch, thánh khiết không chấp nhận tội, không che giấu tội, không im lặng trước sự phạm tội trong Hội Thánh. Hội Thánh công chính trong mọi nhận thức và phán đoán của mình; luôn dùng Lời Chúa làm tiêu chuẩn để xem xét mọi việc, mọi sự, mọi người. Tuyệt đối không dùng cảm xúc riêng, ý riêng, hoặc tiêu chuẩn của thế gian làm tiêu chuẩn thay cho Lời Chúa. Hội Thánh có sức mạnh tuyệt vời, đến nỗi các cửa của âm phủ cũng không thể thắng được Hội Thánh (Ma-thi-ơ 16:18).

(4) [Su-la-mít:] Tôi đi xuống vườn hạnh đào, để xem cây cỏ xanh tươi của trũng, để xem nho đã trổ đọt, thạch lựu đã nở hoa chưa. Tôi không ngờ, sự khao khát của lòng tôi đã đặt tôi {giữa} những chiến xa của những người quý tộc.

Câu hát này là lời của Su-la-mít tâm sự với những ai đang có mặt tại vườn nho (Sa-lô-môn, các hoàng hậu, các phi tần, các cung nữ, các nhà quý tộc, dân chúng). Sau khi được Sa-lô-môn đón tiếp nồng hậu và tình tứ, được dân chúng hoặc các nhà quý tộc ca ngợi, có lẽ Su-la-mít đã bẽn lẽn nói cho mọi người biết rằng, vì sao mà nàng đã gặp được Sa-lô-môn và trở thành người yêu duy nhất của Sa-lô-môn.

Câu (4) có thể được diễn ý như sau: Lời tâm tình của Su-la-mít: Năm trước, lòng tôi khao khát đi xuống vườn hạnh đào, để xem cây cỏ xanh tươi của mùa xuân đang vươn mình trong thung lũng. Nhân tiện, tôi ghé lại vườn nho của nhà vua mà các anh của tôi giữ việc chăm sóc. Tôi muốn biết các dây nho có trổ đọt đúng mùa hay không, những cây thạch lựu đã ra hoa chưa. Không ngờ lòng khao khát ngoạn cảnh mùa xuân của tôi đã khiến tôi gặp được nhà vua, được chàng yêu quý, ban cho tôi địa vị cao trọng, cho tôi được cùng chàng ngồi trên chiến xa của chàng, nổi bật giữa những chiến xa của những người quý tộc.

Bài học thuộc linh: Đức Chúa Jesus Christ gọi mối tương giao giữa chúng ta vào buổi đầu khi chúng ta đến với Ngài là “tình yêu ban đầu” (Khải Huyền 2:4). Chúa là Đấng không hề thay đổi:

Đức Chúa Jesus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không hề thay đổi.” (Hê-bơ-rơ 13:8).

Vì thế tình yêu ban đầu của Ngài đối với chúng ta vẫn y nguyên. Ngài yêu chúng ta từ trước khi Ngài lập nền trái đất. Chỉ có tình yêu của chúng ta đối với Ngài là thay đổi. Có thể thay đổi tốt, đó là chúng ta ngày càng yêu Chúa hơn. Nhưng cũng có thể thay đổi xấu, đó là chúng ta ngày càng yêu thế gian hoặc yêu chính mình hơn là yêu Chúa. Vì thế mà Chúa đã trách Hội Thánh tại Ê-phê-sô thời của Sứ Đồ Giăng, là họ đã bỏ tình yêu ban đầu!

Mỗi khi chúng ta được Chúa ban ơn, được người khác ca ngợi, chúng ta hãy nhớ đến tình yêu ban đầu giữa chúng ta với Chúa, để vun xới cho tình yêu của chúng ta đối với Chúa ngày càng thắm thiết, nồng nàn càng hơn.

(5) [Những con gái của Giê-ru-sa-lem:] Hãy trở về! Hãy trở về! Hỡi Su-la-mít! Hãy trở về! Hãy trở về để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng chị.

Có lẽ các hoàng hậu và phi tần đã cùng đi theo Su-la-mít xuống vườn nho, để xem Su-la-mít có tìm gặp được Sa-lô-môn hay không. Khi họ thấy Sa-lô-môn không hề quở trách Su-la-mít mà còn nói lên những lời ca ngợi tình tứ, công khai đặt nàng trên hết các hoàng hậu và phi tần; nghe được lời ca ngợi Su-la-mít từ các nhà quý tộc hoặc dân chúng; và chính họ cũng nhận thấy những lời ca ngợi ấy xứng với sắc đẹp của Su-la-mít; thì họ thay đổi cách cư xử với Su-la-mít. Họ nài nỉ Su-la-mít hãy trở về cung điện, để họ được chiêm ngưỡng nàng và theo gương nàng.

Câu (5) có thể được diễn ý như sau: Các hoàng hậu và phi tần nài xin Su-la-mít: Hãy trở về! Hãy trở về! Hỡi Su-la-mít! Hãy trở về! Hãy trở về để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng nét đẹp tuyệt vời của chị, được nhìn thấy những đức tính cao quý của chị!

Bài học thuộc linh: Một trong những lời dạy rất quan trọng của Chúa về cách thức chúng ta đối xử với kẻ thù của chúng ta, đó là:

Hỡi những người yêu dấu! Chớ tự mình trả thù nhưng hãy nhường chỗ cho sự giận {của Đức Chúa Trời}; vì có chép rằng, Chúa phán: Sự trả thù thuộc về Ta! Ta sẽ báo trả! [Phục Truyền Luật Lệ Ký 32:35]” (Rô-ma 12:19).

Chính Chúa là Đấng làm cho chúng ta được tôn vinh trước mặt những kẻ thù của chúngta:

Ngài sắm sẵn bàn cho tôi trước mặt những kẻ thù nghịch tôi. Ngài xức dầu cho đầu tôi. Chén tôi đầy tràn.” (Thi Thiên 23:5).

Chúng ta không cần phải nghĩ đến việc trả thù mà hãy thương xót những kẻ thù nghịch chúng ta, hãm hại chúng ta. Chúng ta cầu thay cho họ, xin Chúa thương xót ban cho họ thêm cơ hội ăn năn. Khi cần thì chúng ta cứu giúp họ. Và chúng ta cứ hết lòng sống theo Lời Chúa. Chiếu sáng sự vinh quang của Chúa qua nếp sống của chúng ta. Có khi, kẻ thù của chúng ta sẽ trở thành bạn của chúng ta.

Các anh chị em phải ăn ở ngay lành giữa dân ngoại, để cho họ là những kẻ vẫn gièm chê, xem các anh chị em như người gian ác, được thấy những việc lành của các anh chị em, thì đến ngày Chúa thăm viếng, họ sẽ tôn vinh Đức Chúa Trời.” (I Phi-e-rơ 2:12).

Và hãy nhớ:

Ai ghét anh chị em cùng Cha của mình, là kẻ giết người. Các con biết rằng chẳng một kẻ nào giết người mà có sự sống đời đời ở trong mình.” (I Giăng 3:15).

Chúng ta hãy cẩn thận xét lòng mình mỗi ngày, trên đối với Chúa, dưới đối với mọi người chung quanh chúng ta, xem chúng ta có thật sự yêu Chúa trên tất cả và yêu người khác như chính mình. Đó là nền tảng của tất cả các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa.

(6) [Sa-lô-môn:] Các ngươi nhìn thấy gì nơi Su-la-mít, có phải như điệu múa của đoàn vũ công?

Khi Sa-lô-môn nghe các hoàng hậu và phi tần nài xin Su-la-mít quay về cung điện để họ được chiêm ngưỡng nàng nhiều hơn, ông đã hỏi họ, có phải dáng dấp, cử động, sự di chuyển của Su-la-mít vô cùng dịu dàng, nhịp nhàng, uyển chuyển, xinh đẹp như điệu múa của đoàn vũ công. Điệu múa của đoàn vũ công là điệu múa do những người chuyên nghiệp, tập luyện công phu. Đoàn vũ bao gồm nhiều vũ công với những dáng điệu khác nhau, phối hợp nhịp nhàng thành một điệu vũ. Tất cả những sự dịu dàng, nhịp nhàng, uyển chuyển của đoàn vũ công đều được tập trung trên con người của Su-la-mít và được nàng thể hiện cách tuyệt vời.

Câu (6) có thể được diễn ý như sau: Sa-lô-môn hỏi các hoàng hậu và phi tần: Các ngươi đã chiêm ngưỡng Su-la-mít. Các ngươi có thấy dáng dấp, cử động, và sự di chuyển của Su-la-mít thật là xinh đẹp, dịu dàng, nhịp nhàng, uyển chuyển không khác gì điệu múa tuyệt vời của đoàn vũ công?

Bài học thuộc linh: Các thánh đồ trong mọi thời đại sẽ nhìn thấy gì khi họ chiêm ngưỡng Hội Thánh trong ngày Hội Thánh được kết làm một với Đấng Christ cách mầu nhiệm trong Lễ Cưới của Chiên Con? Nét đẹp của Hội Thánh vừa là sự vinh quang Đấng Christ ban cho Hội Thánh (Giăng 17:22), vừa là sự vinh quang Hội Thánh tự gây dựng cho mình, bằng cách làm ra những việc lành mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho Hội Thánh (Ê-phê-sô 2:10; Khải Huyền 19:8). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng, sắc đẹp của Hội Thánh trong vương quốc đời đời tùy thuộc một phần vào nếp sống của mỗi con dân Chúa trong cuộc đời này. Mỗi người trong chúng ta hãy cùng nhau hết lòng xây dựng sự vinh quang của Hội Thánh, trau dồi sắc đẹp của Hội Thánh bằng cách làm trọn mọi việc lành, mà Đức Chúa Trời đã sắm sẵn cho chúng ta.

Đến đây, chúng ta đã hoàn tất việc tìm hiểu ý nghĩa của Nhã Ca 6:4-13. Chúng tôi xin tổng hợp những lời chúng tôi diễn ý về Nhã Ca 6:4-13, như sau:

Hỡi người yêu dấu của anh! Em xinh đẹp vô cùng! Sắc đẹp của em bao gồm sắc đẹp của tất cả những thiếu nữ xinh đẹp của thành Tiệt-sa và thành Giê-ru-sa-lem. Em đẹp rực rỡ và trang nghiêm như đoàn hùng binh, như rặng núi cao hùng vĩ, như bầu trời đêm sáng rực những vì sao. Anh xin em đừng nhìn anh bằng ánh mắt tha thiết, não nùng ấy, vì tim anh không thể chịu đựng nổi những cảm xúc đang dâng trào. Tóc em đen mịn, đẹp khác nào lớp lông đen của bầy dê khoẻ, mập, nằm nghỉ ngơi trên núi Ga-la-át. Đôi hàm răng em trắng và đều như bầy chiên cái được tắm sạch. Hết thảy đều có đôi, cân đối với nhau. Tấm khăn che cũng không thể giấu đi đôi gò má em tươi hồng như màu hồng của thạch lựu.

Mặc dù có sáu mươi hoàng hậu, tám mươi cung phi, và vô số nữ đồng trinh chung quanh anh; nhưng chim bồ câu của anh, người toàn hảo của anh ơi! Không ai có thể sánh bằng em! Em là người yêu duy nhất trong lòng anh! Em là đứa con yêu dấu tuyệt vời của mẹ em! Em là sự hãnh diện của mẹ em! Những thiếu nữ nhìn thấy em đều gọi em là người có phước. Những hoàng hậu và những cung phi cũng phải cất tiếng ca ngợi em.

Người nữ xinh đẹp này là ai? Nàng tươi sáng, rực rỡ như bình minh; Nàng dịu dàng, trang nhã như trăng rằm. Nàng trong sạch và uy nghiêm như mặt trời. Sắc đẹp của nàng có mãnh lực khiến cho tướng mất thành, khiến cho vua mất nước.

Năm trước, lòng tôi khao khát đi xuống vườn hạnh đào, để xem cây cỏ xanh tươi của mùa xuân đang vươn mình trong thung lũng. Nhân tiện, tôi ghé lại vườn nho của nhà vua mà các anh của tôi giữ việc chăm sóc. Tôi muốn biết các dây nho có trổ đọt đúng mùa hay không, những cây thạch lựu đã ra hoa chưa. Không ngờ lòng khao khát ngoạn cảnh mùa xuân của tôi đã khiến tôi gặp được nhà vua, được chàng yêu quý, ban cho tôi địa vị cao trọng, cho tôi được cùng chàng ngồi trên chiến xa của chàng, nổi bật giữa những chiến xa của những người quý tộc.

Hãy trở về! Hãy trở về! Hỡi Su-la-mít! Hãy trở về! Hãy trở về để cho chúng tôi được chiêm ngưỡng nét đẹp tuyệt vời của chị, được nhìn thấy những đức tính cao quý của chị.

Các ngươi đã chiêm ngưỡng Su-la-mít. Các ngươi có thấy dáng dấp, cử động, và sự di chuyển của Su-la-mít thật là xinh đẹp, dịu dàng, nhịp nhàng, uyển chuyển không khác gì điệu múa tuyệt vời của đoàn vũ công?

Nguyện tình yêu, ân điển, và sự thông công từ Thiên Chúa bao phủ mỗi một chúng ta. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
27/10/2018

Chú Thích

A. Karaoke Thánh Ca: “Mong Chúa Hồi Lai”
https://www.timhieuthanhkinh.com/karaoke/mong-chua-hoi-lai/

B. Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.