Chú Giải Rô-ma 01:16-17

8,468 views

Rô-ma_005 Tin Lành của Đấng Christ
(Rô-ma 1:16-17)

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

Rô-ma 1:16 Vì tôi không hổ thẹn về Tin Lành của Đấng Christ, là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp;

Rô-ma 1:17 vì trong đó, sự công bình của Thiên Chúa được bày tỏ từ đức tin đến đức tin, như có chép rằng: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin.”

Dẫn Nhập

Thánh Kinh dùng nhiều nhóm chữ khác nhau để nói về “Tin Lành:” Tin Lành của Vương Quốc, Tin Lành của Vương Quốc của Đức Chúa Trời, Tin Lành về Sự Bình An, Tin Lành về sự Cứu Rỗi, Tin Lành Chân Thật, Tin Lành Đời Đời, Tin Lành của Thiên Chúa, Tin Lành của Đức Chúa Trời, Tin Lành của Ơn Đức Chúa Trời, Tin Lành Vinh Quang của Đức Chúa Trời, Tin Lành của Con Đức Chúa Trời, Tin Lành của Đức Chúa Jesus, Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ, và Tin Lành của Đấng Christ.

Trong bài 002 chúng ta đã học rằng, ý nghĩa của nhóm chữ “Tin Lành của Thiên Chúa” là nhấn mạnh đến sự kiện Tin Lành Cứu Rỗi đến từ Ba Ngôi Thiên Chúa: Đức Chúa Cha ban cho loài người Tin Lành Cứu Rỗi, Đức Chúa Con thi hành Tin Lành Cứu Rỗi, và Đức Thánh Linh áp dụng năng lực và thành quả của Tin Lành Cứu Rỗi cho những ai thật lòng tiếp nhận Tin Lành ấy.

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/f/MV8xNjI0MDgwMjlf
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/11605-tinlanhcuadangchrist
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/o9t1obwe110makc/11605_ChuGiaiRoma_1_16-17_TinLanhCuaDangChrist.mp3

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Trong bài này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của nhóm chữ “Tin Lành của Đấng Christ” như được trình bày trong Rô-ma 1:16-17.

Tin Lành của Đấng Christ

Rô-ma 1:16 Vì tôi không hổ thẹn về Tin Lành của Đấng Christ, là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp;

Danh từ “Tin Lành của Đức Chúa Jesus Christ” hay “Tin Lành của Đấng Christ” chỉ được một mình Sứ Đồ Phao-lô sử dụng. Danh từ này xuất hiện mười lần trong các thư tín của Phao-lô [1] và bao gồm hai ý nghĩa:

  1. Tin Lành của Thiên Chúa do Đấng Christ rao giảng.
  2. Tin Lành của Thiên Chúa do Đấng Christ làm cho hiện thực.

Trong Ga-la-ti 1:12, Phao-lô viết: “Vì tôi không nhận và cũng không học Tin Lành đó với một người nào, nhưng đã nhận lấy bởi sự tỏ ra của Đức Chúa Jesus Christ.” Phần lớn trong chúng ta đã tiếp nhận Tin Lành do ai đó rao giảng cho chúng ta, nhưng mười hai sứ đồ và các môn đồ của Đức Chúa Jesus Christ vào lúc ban đầu thì nhận lãnh Tin Lành trực tiếp từ nơi Chúa. Sự kiện Phao-lô không nhận lãnh Tin Lành qua một người nào nhưng trực tiếp từ nơi Chúa có tính cách bảo đảm cho chức vụ sứ đồ của ông hoàn toàn không thua sút mười hai sứ đồ được Chúa sai đi trước đó.

Từ ngữ “bởi sự tỏ ra” trong nguyên ngữ chính là danh từ “mạc khải” được dùng trong Khải Huyền 1:1 [2]. “Mạc khải” theo nghĩa đen là vén màn lên để bày ra những gì trước đó bị tấm màn che lại, như khi người ta vén màn trong một rạp hát để lộ ra những gì diễn ra trên sân khấu; theo nghĩa bóng là bày tỏ những gì mà trước kia chưa được bày tỏ.

Phao-lô được Đức Chúa Jesus Christ bày tỏ cho ông Tin Lành của Thiên Chúa mà trước kia ông chưa hề được ai bày tỏ. Qua đó, ông hiểu được Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại và từ trong cõi đời đời Ngài đã sắm sẵn chương trình cứu rỗi nhân loại ra khỏi quyền lực và hậu quả của tội lỗi. Chương trình cứu rỗi đó được gọi là Tin Lành. Trong Tin Lành đó, mọi tội nhân được Đức Chúa Trời tha thứ cách trọn vẹn, vì Con Một của Đức Chúa Trời gánh lấy mọi án phạt thay cho họ, để thỏa mãn sự công chính của luật pháp Thiên Chúa. Trong Tin Lành đó, sự thánh khiết và địa vị làm con của Đức Chúa Trời được phục hồi cho những ai tiếp nhận Tin Lành. Trong Tin Lành đó, sự sống lại của thể xác, sự sống đời đời và quyền thừa hưởng, cai trị cơ nghiệp của Đức Chúa Trời được hứa ban cho những ai tiếp nhận Tin Lành và sống trung tín với Chúa cho đến chết.

Tôi Không Hổ Thẹn

Rô-ma 1:16 Vì tôi không hổ thẹn về Tin Lành của Đấng Christ, là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp;

Phao-lô đã vui mừng tiếp nhận Tin Lành của Đấng Christ và gọi đó là “Tin Lành của tôi” (2:16) như cách ông tiếp nhận Đức Chúa Trời làm Thiên Chúa của ông và gọi Ngài là “Đức Chúa Trời của tôi.” Tiếp nhận Tin Lành tức là tin và sống theo mọi lời Đức Chúa Jesus Christ giảng dạy, là ăn năn tội, tiếp nhận sự thánh hóa của Đức Thánh Linh, nhờ sức toàn năng của Chúa chịu sự bách hại của thế gian mà trung tín đi theo Chúa mỗi ngày. Phao-lô không chỉ tiếp nhận Tin lành của Đấng Christ mà ông còn dâng trọn phần đời còn lại của ông làm sứ giả rao giảng Tin Lành cho muôn dân.

Trong địa vị cao trọng và giai cấp tôn quý trong xã hội thời bấy giờ, Phao-lô có tất cả những gì mà một người Do-thái đương thời mong ước. Thế nhưng, ông vui lòng bỏ hết mọi sự để sống và giảng Tin Lành của Đấng Christ. Trong Phi-líp 3:8-10, Phao-lô tâm sự với Hội Thánh những lời tha thiết như sau:

Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đấng Christ Jesus là quý hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật, tôi xem những điều đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ và được ở trong Ngài, được sự công bình, không phải công bình của tôi bởi luật pháp mà đến, bèn là bởi tin đến Đấng Christ mà được, tức là công bình đến bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin; cho đến nỗi tôi được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài.”

Vì Phao-lô “được biết Ngài và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài” làm cho ông“nên giống như Ngài trong sự chết Ngài,” cho nên, chẳng những Phao-lô không hổ thẹn về Tin lành của Đấng Christ mà ông còn khoe về thập tự giá của Đấng Christ và khoe rằng bởi thập tự giá ấy mà đối với ông thế gian đã chết và đối với thế gian thì ông cũng đã chết:

Còn như tôi, tôi hẳn chẳng khoe mình, trừ ra khoe về thập tự giá của Đức Chúa Jesus Christ chúng ta, bởi thập tự giá ấy, thế gian đối với tôi đã bị đóng đinh, và tôi đối với thế gian cũng vậy!” (Ga-la-ti 6:14).

Trên thập tự giá của Đấng Christ, theo cái nhìn của Phao-lô, toàn thể thế gian tội lỗi đã chết trong sự đoán phạt của Đức Chúa Trời và Đấng Christ đã chết thay cho mọi người (II Cô-rinh-tô 5:14-15; Hê-bơ-rơ 2:9; I Giăng 2:2). Trên thập tự giá của Đấng Christ, cũng theo cái nhìn của Phao-lô, ông đã bị thế gian giết chết vì ông ở trong Đấng Christ. Trong I Cô-rinh-tô 15:31, Phao-lô viết rằng, ông “chết mỗi ngày.”

Hai xác chết thì không thể nào tương giao hay là tác động đến nhau, vì thế, mọi sỉ nhục mà thế gian trút đổ lên Phao-lô, vì cớ ông tiếp nhận và rao giảng Tin Lành của Đấng Christ, hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến ông. Thế gian không thể khiến cho Phao-lô hổ thẹn và bản thân của Tin Lành Đấng Christ không phải là điều hổ thẹn mà là Tin Lành Vinh Quang của Đức Chúa Trời (I Ti-mô-thê 1:11).

Năng Lực của Thiên Chúa để Cứu Mọi Kẻ Tin

Rô-ma 1:16 Vì tôi không hổ thẹn về Tin Lành của Đấng Christ, là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp;

Tin Lành của Đấng Christ được mô tả là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin. Năng lực tức là sức mạnh và khả năng. Năng lực của Thiên Chúa là năng lực của Ba Ngôi Thiên Chúa, là sức mạnh toàn năng, là nguồn của sự sống và sự sáng, là tình yêu vô lượng vô biên. Tin Lành của Đấng Christ có sức mạnh toàn năng làm được mọi sự, biến đổi mọi sự. Tin Lành của Đấng Christ làm cho kẻ chết được sống lại và kẻ sống được sống đời đời (Giăng 11:25-26). Tin Lành của Đấng Christ chiếu sáng về mọi lẽ thật của Thiên Chúa khiến cho loài người giới hạn có thể hiểu biết, tin nhận, và thờ phượng Thiên Chúa vô hạn. Tin Lành của Đấng Christ thể hiện tình yêu của Thiên Chúa dành cho muôn loại thọ tạo và khiến cho muôn loại thọ tạo yêu thương lẫn nhau. Vì thế, Tin Lành của Đấng Christ có năng lực để cứu bất cứ ai tin nhận.

Động từ “cứu” được dùng ở đây là nói đến:

1. Sự cứu rỗi loài người ra khỏi án phạt của tội lỗi, vì mọi người đều đã phạm tội (3:23). Án phạt của tội lỗi là sự chết (3:23), tức là đời đời xa cách Chúa:

Họ sẽ bị hình phạt hư mất đời đời, xa cách mặt Chúa và sự vinh quang của quyền phép Ngài” (II Tê-sa-lô-ni-ca 1:9).

Phạm tội tức là vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời: “Còn ai phạm tội tức là trái luật pháp; và sự tội lỗi tức là sự trái luật pháp” (I Giăng 3:4). Luật pháp của Đức Chúa Trời tức là tất cả những lời giải thích về Mười Điều Răn của Ngài, bao gồm những quy định về sự đoán phạt kẻ nào vi phạm các điều được trình bày trong luật pháp. Điều răn của Chúa được ví như ngọn đèn, luật pháp của Chúa được ví như ánh sáng phát ra từ ngọn đèn. Luật pháp của Chúa làm cho chúng ta hiểu biết điều răn của Chúa: “Vì điều răn là một cái đèn, luật pháp là ánh sáng, và sự quở trách khuyên dạy là con đường sự sống” (Châm Ngôn 6:23).

2. Sự cứu rỗi loài người ra khỏi quyền lực của tội lỗi. Quyền lực của tội lỗi là sức mạnh bắt buộc chúng ta làm ra những điều trái nghịch luật pháp của Chúa mà chúng ta không thể nào không vâng theo. Cũng chính vì thế mà mọi người đều đã phạm tội. Quyền lực của tội lỗi cai trị loài người kể từ khi tổ phụ của loài người là A-đam phạm tội và di truyền cho toàn thể những ai được sinh ra theo dòng xác thịt của A-đam.

Trước là Người Do-thái, Sau Là Người Hy-lạp

Rô-ma 1:16 Vì tôi không hổ thẹn về Tin Lành của Đấng Christ, là năng lực của Thiên Chúa để cứu mọi kẻ tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp;

Sự cứu rỗi của Tin Lành Đấng Christ được ban cho tất cả những ai tin nhận Tin Lành, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. Sứ Đồ Phao-lô đang viết thư cho người La-mã nhưng ông không nói đến người La-mã mà lại nói đến người Hy-lạp. Bởi vì, mục đích của Phao-lô không phải nói đến các chủng tộc mà là nói đến hai nền văn hóa: nền văn hóa Do-thái là nền văn hóa biết Chúa và nền văn hóa Hy-lạp, tiêu biểu cho nền văn hóa của thế gian, là nền văn hóa không biết Chúa.

Trong chương trình của Đức Chúa Trời, theo sự khôn ngoan của Ngài, Ngài đã chọn ra một dân tộc ở giữa thế gian để từ trong dân tộc đó Tin Lành được rao giảng và Đức Chúa Jesus được sinh ra để làm cho Tin Lành được hiện thực. Dân tộc đó là dân I-sơ-ra-ên và trong dân tộc đó, chi phái Giu-đa, còn được phiên âm là Do-thái, là chi phái sinh ra Đức Chúa Jesus về phần xác thịt. Sau khi Vương Quốc I-sơ-ra-ên bị tiêu diệt bởi Đế Quốc A-si-ry vào năm 722 TCN thì danh từ Giu-đa hay Do-thái được dùng để gọi chung toàn thể dân tộc I-sơ-ra-ên còn sót lại trong Vương Quốc Giu-đa. Ngày 14 tháng 5 năm 1948, mười hai chi phái I-sơ-ra-ên bị tan lạc khắp nơi trên thế giới đã trở về tái lập quốc trên vùng đất hứa Ca-na-an và lấy tên là Quốc Gia I-sơ-ra-ên, nhưng vẫn được gọi chung là người Do-thái.

Chính vì sự lựa chọn và sắp xếp của Đức Chúa Trời mà Tin Lành trước hết được giảng cho những người sống trong nền văn hóa biết Chúa, là dân Do-thái, rồi sau đó, được giảng cho những người sống trong nền văn hóa chưa biết Chúa, là các dân tộc còn lại trong thế gian, mà trong thời điểm thư Rô-ma được viết ra cách nay gần 2,000 năm, được tiêu biểu bằng nền văn hóa Hy-lạp.

Sự Công Bình của Thiên Chúa Được Bày Tỏ từ Đức Tin đến Đức Tin

Rô-ma 1:17 vì trong đó, sự công bình của Thiên Chúa được bày tỏ từ đức tin đến đức tin, như có chép rằng: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin.”

Trong Tin Lành của Đấng Christ sự công bình của Thiên Chúa được bày tỏ qua đức tin của người tin nhận Tin lành. Sự công bình của Thiên Chúa có nghĩa là sự toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ của Thiên Chúa trong mọi sự. Thiên Chúa không hề giả dối, Thiên Chúa không hề độc ác, Thiên Chúa không hề thiếu sót. Chính vì thế, Thiên Chúa không thể chấp nhận bất cứ điều gì trái nghịch lại sự công bình của Ngài. Sự công bình của Thiên Chúa được tỏ bày cho loài người qua điều răn và luật pháp của Ngài:

Thật vậy, luật pháp là thánh, điều răn là thánh, công bình và tốt lành” (Rô-ma 7:12)

Đức Chúa Cha thiết lập các điều răn và luật pháp. Đức Chúa Con cai trị muôn loài vạn vật theo điều răn và luật pháp. Đức Thánh Linh cáo trách và lên án mọi sự vi phạm điều răn và luật pháp.

Sự thánh khiết của Thiên Chúa không chấp nhận bất cứ sự vi phạm điều răn và luật pháp nào. Khi loài người vi phạm điều răn và luật pháp của Thiên Chúa thì sự công bình của Thiên Chúa đòi hỏi hình phạt phải được thi hành trên kẻ phạm pháp. Tuy nhiên, Thiên Chúa cũng là tình yêu, Ngài không muốn loài người phải gánh lấy án phạt đời đời dành cho tội lỗi, vì thế, Ngài đã ban cho loài người sự cứu rỗi. Trong sự cứu rỗi đó, Đấng Christ gánh thay án phạt cho loài người, loài người được tha tội: sự thánh khiết, sự công bình, cùng với sự yêu thương của Thiên Chúa hoàn toàn được thỏa mãn.

Dầu Đức Chúa Trời ban ơn cứu rỗi cho nhân loại, Đức Chúa Con thi hành sự cứu rỗi, Đức Thánh Linh áp dụng giá trị và năng lực của sự cứu rỗi cho những ai tin nhận sự cứu rỗi, nhưng nếu không có ai tin nhận sự cứu rỗi đó thì sự công bình của Thiên Chúa không thể bày tỏ trong Tin Lành. Điều đó tương tự như: một dược sĩ có biệt tài chế thuốc chữa bệnh và đã chế thuốc chữa bệnh; chất thuốc có công hiệu chữa lành bệnh; nhưng nếu bệnh nhân không chịu uống thuốc thì công hiệu của sự chữa bệnh không thể bày tỏ trong sự chế thuốc của dược sĩ.

Trong Tin Lành của Đấng Christ sự công bình của Thiên Chúa được bày tỏ từ đức tin đến đức tin có nghĩa là: từ đức tin cơ bản về sự tha tội cho đến đức tin về sự quan phòng của Thiên Chúa hay đức tin về sự sống đời đời đều chiếu sáng sự công bình của Thiên Chúa.

  1. Trong đức tin về sự tha tội: Đấng Christ chết thay cho chúng ta nên chúng ta không còn bị hình phạt, đó là sự công bình của Thiên Chúa được thể hiện.
  2. Trong đức tin về sự quan phòng của Thiên Chúa: Ngài kêu gọi chúng ta chớ lo lắng về mọi nhu cầu trong cuộc sống, nhưng trước hết hãy tìm kiếm vương quốc và sự công bình của Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta mọi nhu cầu, và Ngài giữ đúng lời hứa của Ngài, đó là sự công bình của Thiên Chúa được thể hiện.
  3. Trong đức tin về sự sống đời đời: Ngài hứa với chúng ta rằng, hãy tin nhận Đức Chúa Jesus Christ, (tức là công nhận và làm theo mọi lời phán dạy của Đấng Christ) thì Ngài sẽ ban cho chúng ta sự sống đời đời. Khi chúng ta thật lòng tin nhận Đức Chúa Jesus Christ thì Đức Thánh Linh ngự vào thân thể chúng ta và làm chứng cho chúng ta biết rằng, chúng ta được ở trong địa vị con cái của Đức Chúa Trời và sẽ nhận lãnh sự sống đời đời, đó là sự công bình của Thiên Chúa được thể hiện. Hiện nay, chúng ta chỉ mới nhận lãnh lời hứa về sự sống đời đời. Trong ngày Chúa hiện ra để đem chúng ta ra khỏi thế gian này chúng ta mới thực sự nhận lãnh sự sống đời đời (Đa-ni-ên 12:2; Mác 10:30; Lu-ca 18:30).

Người Công Bình Sẽ Sống Bởi Đức Tin

Rô-ma 1:17 vì trong đó, sự công bình của Thiên Chúa được bày tỏ từ đức tin đến đức tin, như có chép rằng: “Người công bình sẽ sống bởi đức tin.”

Người không còn chịu trách nhiệm về mọi tội lỗi của mình vì đã tin nhận sự chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ là một người công bình trước mặt Đức Chúa Trời. Người ấy nhờ có đức tin vào Tin lành Cứu Rỗi của Đấng Christ mà được xưng là công bình, được sống lại và tiếp tục sống bởi đức tin. Từ ngữ “sống” được dùng ở đây không phải chỉ nói đến sự sống trong thân thể xác thịt này của chúng ta mà còn nói đến sự sống thiêng liêng và sự sống đời đời. Trong II Tê-sa-lô-ni-ca 1:9 nói đến sự hư mất đời đời là sự bị xa cách mặt Chúa và sự vinh quang của quyền phép Ngài, còn Khải Huyền 21:8 thì gọi đó là sự chết thứ hai. Như vậy, ý nghĩa tuyệt đối của “sự chết” tức là đời đời xa cách Chúa, còn ý nghĩa tuyệt đối của “sự sống” tức là đời đời ở bên Chúa, được thấy mặt Chúa, và được cai trị cơ nghiệp của Chúa như Khải Huyền 22:4-5 đã ghi rõ.

“Người công bình sẽ sống bởi đức tin” (trích từ Ha-ba-cúc 2:4) có nghĩa là: Người đã được Chúa tha tội và làm cho sạch tội sẽ nhờ đức tin mà trong đời này thắng mọi cám dỗ và tội lỗi, thỏa lòng trong mọi cảnh ngộ, trong đời sau được đời đời ở bên Chúa, được thấy mặt Chúa, và được cai trị cơ nghiệp của Ngài.

Kết Luận

Danh từ “Tin Lành của Đấng Christ” nói đến Tin lành của Thiên Chúa được rao giảng bởi Đấng Christ và do chính Đấng Christ làm cho hiện thực. Tin Lành của Đấng Christ là sức mạnh và khả năng của Thiên Chúa để giải cứu loài người phạm tội ra khỏi hậu quả và quyền lực của tội lỗi, không phân biệt chủng tộc và trình độ tri thức. Tin Lành của Đấng Christ không giới hạn trong sự cứu rỗi mà còn bao gồm cả sự ban cho tuyệt đối của Thiên Chúa, tức là Thiên Chúa ban chính mình Ngài trong thân vị Đức Chúa Con cho những ai tin nhận Tin Lành. Tin Lành của Đấng Christ bày tỏ trọn vẹn sự công bình của Thiên Chúa trong mọi phương diện của đức tin: sự công bình của Thiên Chúa trong mọi ý định, trong mọi lời phán, và trong mọi việc làm của Ba Ngôi Thiên Chúa đối với loài người.

Chúng ta cần kinh nghiệm Tin Lành của Đấng Christ như Sứ Đồ Phao-lô đã kinh nghiệm đến nỗi chúng ta cũng được biết Ngài, và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho chúng ta nên giống như Ngài trong sự chết Ngài. A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
14/07/2012

Ghi Chú:

[1] Nhóm chữ “Tin Lành của Đấng Christ” được Phao-lô dùng mười lần trong những câu Thánh Kinh sau đây: Rô-ma 1:16; 15:19; I Cô-rinh-tô 9:12; II Cô-rinh-tô 2:12; 4:4; 9:13; 10:14; Ga-la-ti 1:7; I Tê-sa-lô-ni-ca 3:2; II Tê-sa-lô-ni-ca 1:8.

[2] “Sự mạc khải của Đức Chúa Jesus Christ mà Đức Chúa Trời đã ban cho Ngài để tỏ ra cho các tôi tớ Ngài những điều sắp phải xảy đến; Ngài đã sai thiên sứ Ngài tỏ ra cho tôi tớ Ngài là Giăng.”

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.