Chú Giải Rô-ma 05:12-21

4,258 views

Roma_019 Sự Chết Trong A-đam và Sự Sống Trong Đấng Christ
(Rô-ma 5:12-21)

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla

12 Vì như bởi một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian và sự chết {đến} bởi tội lỗi, thì cũng vậy sự chết đã trải qua trên mỗi người, vì mỗi {người} đều đã phạm tội.

13 Vì trước khi {có} luật pháp thì tội lỗi đã có trong thế gian, nhưng tội lỗi chưa bị lên án {khi} chưa có luật pháp.

14 Nhưng sự chết đã cai trị từ A-đam đến Môi-se, đến cả những kẻ chẳng phạm tội giống như sự vi phạm của A-đam. Ông là hình bóng của Đấng sẽ đến.

15 Nhưng lỗi lầm chẳng phải như ân điển. Vì nếu {bởi} sự lỗi lầm của một người mà nhiều {người} bị chết, thì ân điển của Đức Chúa Trời và sự ban cho trong ân điển bởi một người {là} Đức Chúa Jesus Christ, được dư dật cho nhiều {người} biết bao!

16 Và sự ban cho không {đến} bởi một người đã phạm tội, vì bản án bởi một {người} đã dẫn đến án phạt {cho nhiều người}; nhưng ân điển thì từ nhiều lỗi lầm dẫn đến sự được xưng công bình.

17 Vì nếu bởi sự lỗi lầm của một {người} mà sự chết đã cai trị bởi một {người}, thì những ai nhận sự dư dật của ân điển và sự ban cho của sự công bình, {họ} sẽ nhờ một Đức Chúa Jesus Christ mà cai trị trong sự sống biết bao!

18 Vậy nên, như bởi lỗi lầm của một {người} mà án phạt đến trên mọi người {thế nào}, thì bởi việc làm công bình của một {người} cho mọi người mà sự xưng công bình của sự sống cũng đến trên {mọi người} thế ấy.

19 Vì, như bởi sự không vâng phục của một người mà nhiều {người} thành ra những kẻ có tội, thì cũng vậy, bởi sự vâng phục của một {người} mà nhiều {người} thành ra công bình.

20 Nhưng luật pháp đã đến, thêm vào, để {sự tỏ ra của} lỗi lầm thêm lên. Nhưng khi {sự tỏ ra của} tội lỗi đã thêm lên thì ân điển {càng} thêm lên dư dật,

21 để như tội lỗi đã cai trị trong sự chết thế nào, thì ân điển cũng cai trị bởi sự công bình thế ấy, dẫn đến sự sống đời đời bởi Đức Chúa Jesus Christ, Chúa của chúng ta.

Kính mời quý con dân Chúa dành thời gian nghe bài giảng này,
có nhiều thí dụ và giải thích chi tiết hơn là phần bài viết

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào nút “play” ► dưới đây để nghe

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để nghe hoặc tải xuống mp3 bài giảng này:
OpenDrive: https://od.lk/f/MV8xNjQyOTA0Mjhf
SoundCloud: https://soundcloud.com/huynh-christian-timothy/11619-chugiairoma-5_12-21
MediaFire: http://www.mediafire.com/file/lw4lss7q5pa348k/11619_ChuGiaiRoma_5_12-21_SuChetTrongAdamVaSuSongTrongDangChrist.mp3

Bấm vào một trong các nối mạng dưới đây để tải xuống bài viết pdf:
Amazon Drive: https://www.amazon.com/clouddrive/share/EERPUwTASJiTF0aRyt5inO35U3LZbPYs8qE7kOvo5oU
MediaFire: https://www.mediafire.com/folder/u3amorru4ba4t/baigiang_pdf
OpenDrive: https://od.lk/fl/MV8xNjEzMzAzNV8

Ngày Chúa đến đã quá gần. Kính xin quý con dân Chúa tích cực bằng mọi phương tiện, mọi cách phổ biến bài giảng này đến tất cả những con dân Chúa mình quen biết, để dự phần trong việc gây dựng lẫn nhau trong Hội Thánh, giúp nhau sống đúng theo Lời Chúa, sẵn sàng cho sự đến của Đức Chúa Jesus Christ. Xin cám ơn quý con dân Chúa. (Xin đọc bài này: http://www.timhieutinlanh.net/trach-nhiem-cua-con-dan-chua-khi-pho-bien-hoac-khong-pho-bien-mot-bai-giang/).

Sự chết trong A-đam tiêu biểu cho sự chết trong con người cũ của chúng ta. Sự sống trong Đấng Christ tiêu biểu cho sự sống của Thiên Chúa trong con người mới của chúng ta.

Toàn thể loài người, từ khi hình thành trong bụng mẹ là đã ở trong tình trạng bị lây nhiễm bản chất tội lỗi từ A-đam. Bản chất tội lỗi là bản chất đã biết mệnh lệnh của Thiên Chúa mà vẫn vi phạm, cho dù là bởi bất cứ lý do gì. Dù sau khi được sinh ra một thời gian thì loài người chưa tự mình phạm tội một cách có ý thức, nhưng rồi đến một lúc tội lỗi đầu tiên sẽ xuất hiện, thường là bắt đầu bởi sự không vâng lời cha mẹ, như A-đam và Ê-va ngày xưa đã không vâng lời Thiên Chúa.

Bởi ân điển, tức là ơn lớn ban cho của Thiên Chúa trong sự thương xót của Ngài, và nhờ đức tin của chúng ta vào trong sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, mà chúng ta được cứu thoát khỏi sức mạnh của tội lỗi và hậu quả của tội lỗi. Đồng thời Thiên Chúa cũng đã dựng linh hồn (bản ngã) và tâm thần (thân thể thiêng liêng) của chúng ta nên mới trong Đức Chúa Jesus Christ; và Thiên Chúa thánh hóa thân thể xác thịt hiện tại của chúng ta để nó trở thành đền thờ của Thiên Chúa, trong khi chờ ngày được sống lại hoặc được biến hóa cách vinh quang (Ê-phê-sô 2:8-10; 4:24; Cô-lô-se 3:10).

Thành ngữ “trong A-đam” có nghĩa là ra từ A-đam và thuộc về A-đam. Trong A-đam là bản chất tội, là sự nô lệ cho tội lỗi, dẫn đến đau khổ và sự chết. Thành ngữ “trong Đấng Christ” có nghĩa là ra từ Đấng Christ và thuộc về Đấng Christ. Trong Đấng Christ là bản chất yêu thương, thánh khiết, và công bình như Thiên Chúa, là công cụ của Đức Chúa Trời để làm ra những việc làm công bình, dẫn đến sự bình an, hạnh phúc, sự sống lại, và sự sống đời đời trong Vương Quốc Trời.

Tuy nhiên, chính chúng ta phải chọn lựa bỏ đi con người cũ và sự chết, để mặc lấy con người mới và sự sống, hoặc là chọn cứ ở lại trong con người cũ, để rồi vẫn cứ ở dưới sự sai khiến của tội lỗi, chịu sự hình phạt, và đời đời ở trong sự chết. Sự chết đời đời là sự thân thể xác thịt và linh hồn bị đời đời xa cách Chúa, không có sự tương giao với Ngài và không còn bao giờ nhận được ân điển cứu rỗi của Ngài.

Thí dụ minh họa:

Một đứa bé mồ côi, ăn xin, không nhà không cửa, sống lang thang đầu đường xó chợ, được một người giàu có thương xót, mang về làm con nuôi. Đứa bé ấy được tắm rửa sạch sẽ, được mặc quần áo mới, được có phòng ngủ sang trọng, thức ăn ngon lúc nào cũng có sẵn, được cho đi học ở một trường danh tiếng… Người nhà giàu đã làm hết những gì mà lòng thương xót và sự giàu có của ông ta có thể làm, để ban cho đứa bé mồ côi và ăn xin một đời sống mới hạnh phúc. Tuy nhiên, phần của đứa bé thì nó phải chọn tin cậy nơi người cha nuôi giàu có của mình, vâng phục cha nuôi của mình, và tận hưởng những gì cha nuôi ban cho mình. Nếu đứa bé chọn quay về sống đời lang thang đầu đường xó chợ và tiếp tục xin ăn, thì sự kiện người nhà giàu nhận nó làm con nuôi sẽ trở thành vô ích và vô nghĩa.

Chúng ta đã biết quá rõ thế nào là thuộc về A-đam, nhưng thế nào là thuộc về Đấng Christ thì chúng ta chỉ mới kinh nghiệm được một phần rất nhỏ những gì Đấng Christ mang đến cho chúng ta đang khi chúng ta còn ở trong thân thể xác thịt hao mòn này. Phần còn lại lớn hơn, chúng ta chỉ tiếp nhận bằng đức tin, chờ ngày Đấng Christ trở lại để đem chúng ta vào thiên đàng, thì chúng ta mới có thể kinh nghiệm được. Vấn đề là, chúng ta có hết lòng tin cậy nơi Lời Chúa, sống thánh khiết theo Lời Chúa, để được bước vào ngày phước hạnh ấy hay không. Hay chúng ta lại quay về với cuộc đời xưa cũ trong A-đam.

Rô-ma 5:12-21 dạy rõ về các điểm tương đồng giữa A-đam và Đấng Christ, cùng với sự khác biệt giữa một người ở trong A-đam và một người ở trong Đấng Christ.

12 Vì như bởi một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian và sự chết {đến} bởi tội lỗi, thì cũng vậy sự chết đã trải qua trên mỗi người, vì mỗi {người} đều đã phạm tội.

Tội lỗi đã vào trong thế gian bởi người đầu tiên do Thiên Chúa dựng nên, là A-đam. Khi A-đam phạm tội thì ông gánh ngay án phạt của sự phạm tội là sự chết (Sáng Thế Ký 2:17). Vì A-đam đã phạm tội và gánh án phạt của tội lỗi là sự chết nên dòng dõi của ông, tức là toàn thể loài người ra từ ông, cũng đều mang bản chất tội lỗi, phản nghịch Thiên Chúa giống như ông, và cũng đều mang án phạt của tội lỗi là sự chết như ông. Từ khi người đầu tiên được dựng nên là A-đam cho đến khi người cuối cùng sẽ được sinh ra trong Vương Quốc Ngàn Năm, không người nào là không phạm tội, vì tất cả đều ra từ A-đam, thừa hưởng bản tính tội của A-đam, nên mỗi người đều mang án chết và sẽ chết đời đời nếu không tin nhận sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời.

Ngoại trừ trường hợp duy nhất là Thiên Chúa Ngôi Lời trong thân xác loài người mang tên Jesus là người không lây nhiễm bản chất tội từ A-đam và tự Ngài cũng không phạm tội. Ngài là loài người 100% vì Ngài hoàn toàn mang hình thể xác thịt của loài người. Nhưng thân thể xác thịt của Ngài không thuộc dòng dõi của A-đam mà thuộc dòng dõi của người nữ, tức bà Ma-ri. Vì Ngài không có một người cha xác thịt nào, nhưng do chính Đức Chúa Trời bằng phép lạ, sinh ra Ngài trong lòng trinh nữ Ma-ri. Vì vậy, Ngài được gọi là con của Đức Chúa Trời, và thuộc về dòng dõi của một người nữ, như lời tiên tri của Đức Chúa Trời trong Sáng Thế Ký 3:15 về sự sinh ra của Ngài:

Ta sẽ đặt sự nghịch thù giữa ngươi và người nữ, giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ. Người sẽ giày đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ làm tổn thương gót chân người.” [Chữ người trong câu này chỉ về một người sẽ ra từ dòng dõi người nữ, tức là Đức Chúa Jesus.]

Chúng ta biết, sự sống của toàn thể loài người đều ra từ A-đam. Ngay chính sự sống của Ê-va cũng ra từ A-đam, chứ không phải Thiên Chúa đã ban cho Ê-va một sự sống khác với sự sống mà Ngài đã ban cho A-đam. Nếu Thiên Chúa ban cho Ê-va sự sống khác với sự sống của A-đam thì Ngài đã tạo ra hai loài người. Nhưng sự thật là Thiên Chúa chỉ tạo ra một loài người với hai thân vị: nam và nữ. Từ hai thân vị nam và nữ ban đầu đó mà loài người sinh ra nhiều thân vị khác nhau. Cho dù có đến hàng tỷ thân vị loài người ra từ A-đam và Ê-va, nhưng chỉ có một loài người. Thánh Kinh đã khẳng định như vậy:

Chẳng phải Ngài chỉ làm ra một {loài người} dù hơi linh của Ngài là dư dật sao?” (Ma-la-chi 2:15a).

Một người có thể nhận sự di truyền của cả cha lẫn mẹ về phần thuộc thể, tức là thân thể xác thịt, nhưng tâm thần và linh hồn thì ra từ người cha. Chính vì vậy mà tất cả những ai được sinh ra bởi một người cha xác thịt thì đều nhận lãnh sự di truyền của bản tính tội và hậu quả của tội lỗi là sự chết. Đức Chúa Jesus không có người cha xác thịt, nhưng chính Đức Chúa Trời đã sinh ra Ngài trong lòng trinh nữ Ma-ri, nên Ngài là con đầu lòng của Đức Chúa Trời trong thân thể xác thịt loài người, và Ngài không nhiễm bản tính tội của loài người, trong khi Ngài nhận lãnh hoàn toàn hình thể xác thịt từ bà Ma-ri. Tâm thần và linh hồn của Đức Chúa Jesus không đến từ loài người, mà là tâm thần và linh hồn của Thiên Chúa Ngôi Lời, chịu giới hạn trong hình thể xác thịt của loài người. Vì thế, Đức Chúa Jesus cũng chính là Thiên Chúa 100%.

Đức Chúa Trời đã sinh ra Đức Chúa Jesus trong lòng trinh nữ Ma-ri như thế nào, thì đó là một phép lạ, như phép lạ Thiên Chúa đã lấy bụi đất làm nên hình thể loài người, rồi thổi hơi linh của Ngài vào hình thể ấy, thì hình thể ấy trở nên một linh hồn sống, gọi là loài người. Như phép lạ Đức Chúa Trời vẫn làm ra về việc tái sinh tâm thần và linh hồn của một người trong Đức Chúa Jesus, khi người ấy thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ.

Nếu Đức Chúa Jesus Christ không cam lòng, tình nguyện chịu chết thay cho loài người thì thân thể xác thịt của Ngài sẽ không bao giờ chết, vì Ngài không phạm tội. Ngài không phạm tội không phải vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng. Ngài đã từ bỏ mọi quyền năng và vinh quang của Thiên Chúa để mang lấy thể trạng của loài người:

Đấng thực hữu trong hình thể của Thiên Chúa, nhưng chẳng coi sự bình đẳng của mình với Thiên Chúa là sự nên nắm giữ. Chính Ngài đã tự bỏ mình đi, nhận lấy hình thể của tôi tớ, và trở nên ở trong sự giống như loài người; được tìm thấy trong thể trạng của một người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, đến nỗi chết trên cây thập tự.” (Phi-líp 2:6-8). [Thể trạng của một người là tất cả những gì thuộc về một người, bao gồm: ngoại hình, cảm giác và cảm xúc, thái độ, hành động, nếp sống…]

Nhưng Ngài không phạm tội vì Ngài chọn không phạm tội trong khi mang lấy thân thể xác thịt của loài người bằng chính năng lực của loài người. Điều đó chứng minh, một người có thể sống mà không phạm tội. Nếu loài người không thể nào không phạm tội thì sẽ dẫn đến hai vấn đề:

  1. Thiên Chúa không công bình khi dựng nên loài người không có khả năng thắng cám dỗ, mà lại hình phạt họ khi họ phạm tội vì họ không thắng được cám dỗ.
  2. Thiên Chúa không toàn năng nên đã không thể dựng nên loài người với khả năng thắng được mọi cám dỗ.

Thiên Chúa Ngôi Lời nhập thế làm người vừa chứng minh sự kiện loài người do Thiên Chúa dựng nên có năng lực thắng mọi cám dỗ, mà bản thân con người xác thịt của Ngài là bằng cớ hiển nhiên, vừa để Ngài có thể đứng ra gánh thay hậu quả sự phạm tội của loài người, nhờ đó loài người có cơ hội được cứu rỗi.

13 Vì trước khi {có} luật pháp thì tội lỗi đã có trong thế gian, nhưng tội lỗi chưa bị lên án {khi} chưa có luật pháp.

Nhóm chữ: “trước khi có luật pháp” có nghĩa là: Trước khi luật pháp được ban hành qua chữ viết.

Tội lỗi là sự không vâng phục Thiên Chúa. Trước khi luật pháp được ban hành qua chữ viết thì tội lỗi đã có trong thế gian và mang theo nó là sự chết. Chúng ta phải hiểu rõ điều này:

Trước khi điều răn và luật pháp của Thiên Chúa được ban hành qua chữ viết tại núi Si-na-i thì điều răn và luật pháp của Thiên Chúa đã được bày tỏ cho loài người trong tâm thần của họ. Áp-ra-ham có trước thời điểm điều răn và luật pháp được ban hành qua chữ viết hơn 430 năm. Nhưng ông đã biết đến và hết lòng vâng giữ mọi điều răn và luật pháp của Thiên Chúa, và ông đã được Đức Chúa Trời công nhận:

…Áp-ra-ham đã vâng theo tiếng Ta, đã giữ gìn sự quy định của Ta: các điều răn của Ta, các luật lệ của Ta, các luật pháp của Ta.” (Sáng Thế Ký 26:5).

Áp-ra-ham đã vâng theo tiếng phán của Thiên Chúa trong tâm thần của ông mà giữ gìn sự quy định của Thiên Chúa. Sự quy định của Thiên Chúa bao gồm:

  • Các điều răn của Thiên Chúa là mười điều Thiên Chúa ra lệnh cho loài người làm hoặc không làm. Hai điều Thiên Chúa muốn loài người làm là: (1) Hãy nhớ và thánh hóa ngày Sa-bát! (2) Hãy hiếu kính cha mẹ! Tám điều Thiên Chúa không muốn cho loài người làm là: (1) Trước mặt Thiên Chúa có các thần khác. (2) Làm hình tượng các loài Thiên Chúa cấm, thờ lạy chúng, hầu việc chúng. (3) Lấy danh Thiên Chúa làm ra vô ích. (4) Phạm tội giết người. (5) Phạm tội ngoại tình. (6) Phạm tội trộm cắp. (7) Phạm tội nói chứng dối. (8) Phạm tội tham muốn bất cứ điều gì của người khác. (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:1-17).
  • Các luật lệ của Thiên Chúa là cách thức áp dụng Mười Điều Răn vào trong cuộc sống. Khi được ban hành qua chữ viết thì các luật lệ bao gồm 603 điều, kết hợp với Mười Điều Răn thành 613 điều luật trong luật pháp của Thiên Chúa.
  • Các luật pháp của Thiên Chúa là các điều khoản ghi ra hình phạt dành cho những ai vi phạm các điều răn và các luật lệ của Ngài.

Không riêng gì Áp-ra-ham hay những người có lòng tin kính Chúa trước thời Cựu Ước (thời Cựu Ước bắt đầu từ khi Thiên Chúa ban hành điều răn và luật pháp thành chữ viết tại núi Si-na-i cho đến ngày Đức Chúa Jesus Christ rao giảng Tin Lành), mà tất cả những người chọn sống nếp sống không tin kính Chúa trong mọi thời đại cũng nhận biết các điều răn và luật pháp của Ngài. Chính Đức Thánh Linh, qua Sứ Đồ Phao-lô đã khẳng định như vậy:

Rô-ma 1:18-21

18 Cơn giận của Thiên Chúa từ trên trời tỏ ra nghịch lại mọi sự không tin kính và mọi sự không công bình của những người dùng sự không công bình mà đè nén lẽ thật.

19 Bởi vì sự hiểu biết về Đức Chúa Trời được chiếu ra trong họ. Vì Đức Chúa Trời đã tỏ ra cho họ

20 những sự không thấy được của Ngài, từ sự sáng tạo thế gian {là} những vật thọ tạo được nhận biết, mà thấy rõ ràng cả năng lực và thần tính đời đời của Ngài; cho nên, họ không thể chữa mình.

21 vì họ dẫu biết Đức Chúa Trời, mà không làm vinh hiển Ngài như Thiên Chúa, và không tạ ơn Ngài nữa; nhưng cứ lầm lạc trong lý tưởng hư không, và lòng ngu dốt đầy những sự tối tăm.

Câu cuối cùng trong Rô-ma đoạn 1 cho thấy bản chất thích sống trong tội của loài người, bất chấp sự hiểu biết của loài người về điều răn và luật pháp của Thiên Chúa:

Họ là những kẻ biết rõ sự phán quyết của Đức Chúa Trời rằng, những kẻ làm ra các sự ấy là đáng chết; {thế mà}, chẳng những họ {tự} làm, họ còn vui thú {với} những kẻ làm {các sự ấy}.” (Rô-ma 1:32).

Sự kiện tội lỗi chưa bị lên án khi luật pháp chưa ban hành qua chữ viết, không có nghĩa là việc làm tội lỗi không phải là tội lỗi. Vì tội lỗi là sự nghịch lại ý muốn của Thiên Chúa. Chỉ cần nghịch lại ý muốn của Thiên Chúa mà Ngài đã tỏ ra trong tâm thần của loài người thì loài người đã phạm tội. Chúng ta thấy trong trường hợp Ca-in giết A-bên, dù lúc bấy giờ chưa có luật pháp ban hành qua chữ viết với điều răn: “Ngươi chớ phạm tội giết người!” Nhưng chắc chắc là Ca-in ý thức được hành động giết người là tội lỗi. Chính Thiên Chúa đã cảnh báo Ca-in:

Nếu ngươi làm lành, có thể nào ngươi chẳng được chấp nhận? Còn nếu ngươi chẳng làm lành, thì tội lỗi nằm chờ trước cửa. Nó thèm ngươi lắm nhưng ngươi phải quản trị nó.” (Sáng Thế Ký 4:7).

Sự kiện tội lỗi chưa bị lên án khi luật pháp chưa ban hành qua chữ viết chỉ có nghĩa là: Kẻ phạm tội không bị hình phạt theo luật pháp vì chưa có điều khoản chép thành chữ, quy định hình phạt cho tội lỗi mà kẻ ấy phạm.

14 Nhưng sự chết đã cai trị từ A-đam đến Môi-se, đến cả những kẻ chẳng phạm tội giống như sự vi phạm của A-đam. Ông là hình bóng của Đấng sẽ đến.

Khoảng thời gian từ A-đam cho đến khi Môi-se nhận lãnh luật pháp ban hành qua chữ viết trên núi Si-na-i thì hậu quả của tội lỗi là sự chết vẫn cai trị trên mọi loài xác thịt. A-đam vì phạm tội ăn trái của loại cây Chúa cấm ăn nên phải chết. Nhưng tất cả những ai phạm các tội khác với tội của A-đam thì cũng phải chết. Vì sự chết là hậu quả đương nhiên của sự phạm tội.

Sự chết của thể xác khiến cho kết thúc sự phạm tội của chúng ta. Sự chết của linh hồn khiến cho chúng ta đời đời ở bên ngoài tình yêu và vương quốc của Thiên Chúa.

Khi chúng ta suy ngẫm về sự phạm tội của A-đam và hậu quả theo sau sự phạm tội ấy, chúng ta mới thấy tội lỗi là nghiêm trọng. Bất cứ tội lỗi nào cũng đều phát xuất từ sự chúng ta không vâng phục Thiên Chúa. Hậu quả của mỗi tội lỗi đều là sự chết. Và bất cứ tội lỗi nào chúng ta phạm, dù chỉ là một lời nói dối, cũng sẽ di hại đến tất cả con cháu của chúng ta; trong đó có sự Đức Chúa Trời sẽ giáng hình phạt xuống trên con cháu của chúng ta đến đời thứ ba và đời thứ tư (Xuất Ê-díp-tô Ký 20:5).

A-đam là hình bóng của Đấng sẽ đến có nghĩa là: A-đam là hình bóng của Đức Chúa Jesus Christ. Thánh Kinh gọi Đức Chúa Jesus Christ là A-đam sau cùng:

Vậy, có lời chép rằng: Người thứ nhất {là} A-đam, đã là một linh hồn sống. A-đam sau cùng là Thần Ban Sự Sống.” (I Cô-rinh-tô 15:45).

A-đam thứ nhất là một linh hồn sống, vì thế, từ A-đam thứ nhất đã sinh ra dòng dõi của loài người, tức là những linh hồn sống khác, giống A-đam. Đấng Christ được gọi là A-đam vì Ngài là người 100%. Danh từ “a-đam” có nghĩa là “loài người”. Danh từ “A-đam sau cùng” có nghĩa là “loài người sau cùng” được Đức Chúa Trời dựng nên.

Trong khi A-đam thứ nhất là linh hồn sống, sinh ra nhiều linh hồn sống khác, thì A-đam sau cùng là Thần Ban Sự Sống, có quyền ban sự sống cho những linh hồn đã chết vì phạm tội.

Trong A-đam thứ nhất, chúng ta có sự sống đã bị tiêm nhiễm tội lỗi nên chúng ta đều chết.

Trong A-đam sau cùng, chúng ta có sự sống lại và sự sống đời đời, nếu chúng ta tin nhận lời phán của Ngài.

15 Nhưng lỗi lầm chẳng phải như ân điển. Vì nếu {bởi} sự lỗi lầm của một người mà nhiều {người} bị chết, thì ân điển của Đức Chúa Trời và sự ban cho trong ân điển bởi một người {là} Đức Chúa Jesus Christ, được dư dật cho nhiều {người} biết bao!

16 Và sự ban cho không {đến} bởi một người đã phạm tội, vì bản án bởi một {người} đã dẫn đến án phạt {cho nhiều người}; nhưng ân điển thì từ nhiều lỗi lầm dẫn đến sự được xưng công bình.

Danh từ “lỗi lầm” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là: Không đạt tiêu chuẩn, hoặc bị sai lệch lẽ phải. Lỗi lầm là một hình thức phạm tội vì thiếu hiểu biết hoặc vì vô ý. Chúng ta không có chi tiết về sự A-đam phạm tội, nhưng dựa vào Lời Chúa nói về sự phạm tội của ông mà chúng ta đang học trong Rô-ma 5:15, thì chúng ta có thể kết luận rằng, A-đam đã vô ý phạm tội chứ không phải ông cố ý chống nghịch lời phán của Chúa. Thánh Kinh chép rằng, sau khi đối đáp với con rắn thì bà Ê-va hái trái của cây biết điều thiện và điều ác để ăn, rồi trao cho chồng ở gần bên, thì chồng cũng ăn:

Người nữ thấy cây ấy trái ăn ngon, lại đẹp mắt, là cây đáng chuộng vì để mở trí khôn, thì hái trái, ăn, rồi cũng trao cho chồng ở gần mình, chồng cũng ăn.” (Sáng Thế Ký 3:16).

Chúng ta không biết khoảng thời gian từ khi bà Ê-va đối đáp với con rắn cho đến khi bà hái trái của cây biết điều thiện và điều ác là bao lâu; liền sau đó hay là vài ngày sau? Chúng ta không biết là A-đam có nghe cuộc đối thoại ấy hay không. Chúng ta không biết sự A-đam “ở gần” Ê-va là ở gần trong khoảng cách nào. Có phải ông đang đứng dưới một cây khác cạnh đó hay không? Ông có nhìn thấy bà Ê-va hái trái của cây biết điều thiện và điều ác hay không? Hay là ông ngỡ rằng bà hái trái của một cây nào đó, nên ông thản nhiên nhận trái cây đó từ nơi tay bà, và ăn?

Nhưng cho dù A-đam phạm tội cách vô ý thì lỗi lầm của ông đã mang sự chết đến trên ông và toàn thể loài người ra từ ông! Nói cách khác, lỗi lầm của một người đã mang sự chết đến cho mọi người.

Ngược lại với hậu quả của lỗi lầm là kết quả của ân điển được ban cho trong một người là Đức Chúa Jesus Christ. Ân điển của Đức Chúa Trời ban cho trong Đức Chúa Jesus Christ mang đến sự sống lại và sống đời đời cách dư dật cho nhiều người, là những ai tin nhận ân điển của Đức Chúa Trời. Cho dù một người phạm bao nhiêu lỗi lầm thì ân điển của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jesus Christ cũng đủ để xưng người ấy là công bình, nếu người ấy tin nhận ân điển của Ngài, bằng cách thật lòng ăn năn tội và tin vào sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ.

Ân điển ấy không thể đến với loài người bởi bất cứ ai khác ngoài Đức Chúa Jesus, vì mọi người đều đã phạm tội, chỉ có Đức Chúa Jesus là không hề phạm tội. Các tôn giáo trong thế gian giảng dạy về sự cứu rỗi trong các giáo chủ của họ, nhưng các giáo chủ trong các tôn giáo đều là những người phạm tội và bị sự chết cai trị. Bản thân họ còn không cứu được họ, làm sao họ có thể cứu người khác? Lời Chúa đã khẳng định:

Chẳng có sự cứu rỗi trong đấng nào khác; vì ở dưới trời, chẳng có danh nào khác ban cho loài người, để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu.” (Công Vụ Các Sứ Đồ 4:12).

Vì thế, mọi tôn giáo chỉ là sự lường gạt của ma quỷ. Ma quỷ còn thâm độc hơn khi tạo ra nhiều tôn giáo mạo nhận là Hội Thánh của Chúa, khi chúng dùng các tôn giáo ấy để giảng dạy tà giáo, khiến cho người ta xa lìa và thậm chí chống nghịch các điều răn và luật pháp của Thiên Chúa. Trên thế giới hiện nay có hơn hai tỷ người xưng nhận mình là con dân của Thiên Chúa, là môn đồ của Đức Chúa Jesus Christ, nhưng thực tế thì họ là những người không vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời. Ngược lại, họ vâng giữ các điều răn của loài người và những lời truyền khẩu của loài người do các giáo hội dạy, như lời Đức Chúa Jesus Christ đã phán về họ:

Hỡi những kẻ giả hình! Có phải Ê-sai đã nói tiên tri về các ngươi rằng: Dân này lấy miệng của chúng đến gần Ta, lấy môi tôn kính Ta; nhưng lòng của chúng nó thì xa cách Ta! Chúng nó thờ lạy Ta cách vô ích, giảng dạy giáo lý về các điều răn của loài người.” [Ê-sai 29:13] (Ma-thi-ơ 15:7-9).

Các ngươi bỏ đi điều răn của Đức Chúa Trời để giữ lời truyền khẩu của loài người…” (Mác 7:8).

Điều lạ lùng là: Những điều răn của loài người và những lời truyền khẩu của loài người rõ ràng nghịch lại các điều răn của Đức Chúa Trời trong Thánh Kinh, nhưng những người mang danh là con dân Chúa vẫn nhắm mắt vâng theo, và dạy cho con cháu họ vâng theo, từ đời này sang đời khác. Họ hãnh diện với các bằng cấp cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ thần học do các trường Thánh Kinh và Thần Học của các giáo hội ban phát cho họ. Họ không hề ý thức rằng, các bằng cấp đó là chứng cớ cho sự bội nghịch của họ đối với lẽ thật của Lời Chúa!

17 Vì nếu bởi sự lỗi lầm của một {người} mà sự chết đã cai trị bởi một {người}, thì những ai nhận sự dư dật của ân điển và sự ban cho của sự công bình, {họ} sẽ nhờ một Đức Chúa Jesus Christ mà cai trị trong sự sống biết bao!

Bởi lỗi lầm của A-đam thứ nhất mà sự chết đã cai trị trên toàn thể loài người ra từ A-đam, buộc mọi người phải phục tùng tội lỗi và cứ tiếp tục làm ra tội. Vì trong sự chết là sự bị dứt thông công với Thiên Chúa, nên loài người không thể nhận được sức sống và năng lực từ Thiên Chúa để có thể sống một đời sống yêu thương, thánh khiết, công bình, phản chiếu vinh quang của Thiên Chúa.

Nhưng bất cứ ai tin nhận ân điển của Đức Chúa Trời ban cho loài người trong Đức Chúa Jesus Christ, thì người ấy sẽ được sống lại bởi sự Đức Chúa Trời tái sinh người ấy. Người ấy sẽ nhận được cách dư dật sức sống và năng lực của Thiên Chúa, qua Đức Chúa Jesus Christ, để có thể sống một đời sống giống như Đấng Christ. Một đời sống tràn đầy yêu thương, thánh khiết, công bình, chiếu sáng vinh quang của Thiên Chúa: Họ sẽ cai trị được thân thể xác thịt hiện tại của họ, bắt nó ngưng phạm tội, mà chuyên làm ra những việc công bình để phụng sự Thiên Chúa, và họ sẽ được đồng cai trị với Đấng Christ trong vương quốc của Đức Chúa Trời.

18 Vậy nên, như bởi lỗi lầm của một {người} mà án phạt đến trên mọi người {thế nào}, thì bởi việc làm công bình của một {người} cho mọi người mà sự xưng công bình của sự sống cũng đến trên {mọi người} thế ấy.

19 Vì, như bởi sự không vâng phục của một người mà nhiều {người} thành ra những kẻ có tội, thì cũng vậy, bởi sự vâng phục của một {người} mà nhiều {người} thành ra công bình.

Hậu quả sự phạm tội của A-đam thứ nhất đã di hại đến toàn thể loài người ra từ ông, khiến cho mọi người đều bị chết về thuộc thể lẫn thuộc linh. Nhưng kết quả việc làm công bình của A-đam sau cùng là Đức Chúa Jesus Christ đã làm ra cho mọi người, thì mang lại sự xưng công bình, dẫn đến sự sống cho mọi người. Nhưng chỉ những ai tin nhận việc làm công bình của Đấng Christ thì mới được xưng công bình. Mà tin nhận Đấng Christ thì phải ăn năn tội, vì lời giảng đầu tiên của Đấng Christ là lời kêu gọi ăn năn.

Động từ “ăn năn” trong nguyên ngữ Hy-lạp của Thánh Kinh có nghĩa là “thay đổi sự suy nghĩ”. Nói cách khác, ăn năn là từ chỗ suy nghĩ vui thích về tội, hướng lòng về sự phạm tội trở thành suy nghĩ chán ghét tội, hướng lòng về nếp sống thánh khiết trong Chúa. Sự ăn năn không phải là điều xảy ra một lần, mà là xảy ra trong suốt cuộc đời của một người tin nhận Đấng Christ. Suốt cuộc đời của người ấy lúc nào trong tư tưởng cũng chán ghét tội và trong lòng luôn hướng về nếp sống thánh khiết theo Lời Chúa, mà Thánh Kinh gọi là “bước đi theo thần trí” tức là sống theo sự hiểu biết của tâm thần về Lời Chúa (Ga-la-ti 5:16, 25).

Sự không vâng phục của A-đam thứ nhất và hậu quả của sự không vâng phục ấy, tức là sự chết, đã lưu truyền trong dòng dõi loài người ra từ ông như thế nào, thì sự vâng phục của A-đam sau cùng là Đức Chúa Jesus Christ và kết quả của sự vâng phục ấy, tức là sự sống lại và sự sống đời đời, cũng lưu truyền trong dòng dõi loài người ra từ Đức Chúa Jesus Christ thế ấy. Chính vì thế mà những ai thật lòng ăn năn, hoàn toàn tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ, thì đều trở nên những người vâng phục Đức Chúa Trời, thậm chí vâng phục cho đến chết (Phi-líp 2:8), và họ được đời đời vui hưởng kết quả của sự vâng phục, là được Đức Chúa Trời xưng là công bình, ban cho quyền cai trị cơ nghiệp của Ngài.

20 Nhưng luật pháp đã đến, thêm vào, để {sự tỏ ra của} lỗi lầm thêm lên. Nhưng khi {sự tỏ ra của} tội lỗi đã thêm lên thì ân điển {càng} thêm lên dư dật,

21 để như tội lỗi đã cai trị trong sự chết thế nào, thì ân điển cũng cai trị bởi sự công bình thế ấy, dẫn đến sự sống đời đời bởi Đức Chúa Jesus Christ, Chúa của chúng ta.

“Nhưng luật pháp đã đến, thêm vào” có nghĩa là luật pháp của Đức Chúa Trời đã được ban hành qua chữ viết, thêm vào luật pháp không viết thành chữ đã được giãi bày trong tâm thần của loài người, để loài người có văn bản cụ thể của luật pháp mà đối chiếu với những việc làm của mình. Nhờ đó, loài người biết rõ mình đã phạm tội như thế nào, đáng bị hình phạt như thế nào.

Trước khi luật pháp được ban hành qua chữ viết thì tội lỗi vẫn cai trị loài người, và sự phạm tội vẫn có nhiều, nhưng lại thấy dường như sự phạm tội không có nhiều, vì không có luật pháp bằng chữ viết để loài người đối chiếu với những việc làm của mình, mà thấy rõ là mình phạm tội. Từ khi luật pháp được ban hành qua chữ viết thì sự phạm tội của loài người được tỏ ra cách rõ ràng, khiến cho sự phơi bày tội lỗi thêm lên nhiều. Tuy nhiên, khi sự tỏ bày về tội lỗi gia tăng thì ơn thương xót của Đức Chúa Trời lại gia tăng càng hơn, có dư dật để ban sự tha thứ tội và làm cho sạch tội, cho tất cả những ai thật lòng ăn năn tội và tin nhận sự chết chuộc tội của Đức Chúa Jesus Christ.

Tội lỗi có sức mạnh khiến cho người ta không thể không phạm tội và giam giữ người ta trong hậu quả của tội lỗi là sự chết, là bị phân rẽ khỏi Thiên Chúa. Nhưng sự thương xót của Chúa khiến cho người ta được xưng là công bình và có năng lực sống một đời sống công chính, là đời sống dẫn đến sự sống đời đời mà người ta sẽ được Đức Chúa Trời ban cho qua Đức Chúa Jesus Christ.

Thành ngữ “Đức Chúa Jesus Christ, Chúa của chúng ta” được dùng ở đây với ý nghĩa là: Đức Chúa Jesus Christ là Đấng toàn quyền trong đời sống của những ai có cùng đức tin nơi Ngài, như Phao-lô và con dân Chúa tại thành Rô-ma.

Nguyện rằng, tất cả những ai đọc hoặc nghe bài giảng này đều thật lòng và hoàn toàn tin nhận Đức Chúa Jesus Christ là Chúa của mình. Nguyện rằng, đức tin ấy được tỏ ra bằng hành động cụ thể, là luôn ăn năn, từ bỏ tội, luôn hướng lòng về nếp sống thánh khiết theo Lời Chúa. Nguyện sự sống đời đời trong Vương Quốc Trời sẽ ban cho những ai trung tín vâng giữ các điều răn của Đức Chúa Trời và giữ vững đức tin trong Đức Chúa Jesus Christ (Khải Huyền 14:12; 22:14 ). A-men!

Huỳnh Christian Timothy
Huỳnh Christian Priscilla
24/02/2018

Chú Thích

Karaoke: “Trong Cha Là Mùa Xuân”:
https://www.timhieuthanhkinh.com/karaoke/trong-cha-la-mua-xuan/

Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012: Các câu Thánh Kinh được trích dẫn trong bài này là theo Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Hiệu Đính 2012. Đây là bản Thánh Kinh Việt Ngữ trên mạng, đang trong tiến trình hiệu đính để hoàn thành Thánh Kinh Việt Ngữ Bản Dịch Ngôi Lời. Quý con dân Chúa có thể đọc tại đây: https://thanhkinhvietngu.online/tiengviet/.

Những sách nào đã được hiệu đính hoàn toàn sẽ được đăng tại đây: https://christ.thanhkinhvietngu.net/.

  • Các chữ nằm trong hai dấu { } không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, nhưng được hàm ý theo cấu trúc của văn phạm tiếng Hê-bơ-rơ và tiếng Hy-lạp.

  • Các chữ nằm trong hai dấu [ ] không có trong nguyên văn của Thánh Kinh, đó là chú thích của người dịch.